Năm Nhâm Thìn đời vua Minh Mệnh (1832), nhà vua cho in tập thơ ngự chế thứ hai và ban tặng cho các nơi. Sách Đại Nam thực lục cho biết: Tập thơ ngự chế thứ hai đã khắc in xong (từ mùa xuân năm Minh Mệnh thứ 12 1831 đến mùa đông năm thứ 13 1832, thơ cổ thể và kim thể, gồm 10 quyển, cộng 613 bài, 2 quyển mục lục). Thưởng 100 lạng bạc cho những người chuyên biện và hội biện cùng với thợ làm. Sau đó, sai in ra, cấp cho: các hoàng tử, các tước công, các đường quan ở bộ, ở viện, ở Nội các, các quan Quốc tử giám trong Kinh, các quan tỉnh và các quan học chính ở các trực Tả trực kỳ và Hữu trực kỳ và các tỉnh ở ngoài, mỗi người 1 bộ.
Vua dụ Nội các: “Hai tập thơ Ngự chế: Sơ tập và Nhị tập, đã chuẩn y lời xin của văn thần, cho khắc in rồi. Lần lượt đã giáng chỉ thưởng cấp cho các quan trong Kinh và ngoài các tỉnh. Nhân nghĩ về thơ văn, ta không đua tài với văn sĩ, nhưng theo ý muốn của mọi người nên cho khắc in, cũng có thể làm ơn mà cho lưu hành trong đám nho sĩ. Vậy, xuống dụ quan dân trong ngoài ai muốn in riêng cho mình, thì chuẩn cho mang đủ giấy mực đến Quốc sử quán, nơi chứa ván in mà in, để rộng truyền bá.
Nguyên văn bài thơ:
壬辰元旦視朝有作 Nhâm Thìn nguyên đán thị triều hữu tác
(Làm thơ khi lên triều ngày đầu năm năm Nhâm Thìn)
首祚迎繁祉
履端沐昊休
(元旦御殿受賀即降旨宴賚有差是日天氣晴和中外欣歡誠為開韶吉事)
重壬安萬物
今歲壬辰正月壬寅按史記律書有云壬之為言任也言陽氣任養萬物于下也.
閏戌富三秋
(本年閏九月說文云五行上生於戊盛於戌從戊含一也).
沛澤新春協
視朝古禮修
歲時仍復始
宵旰又從頭
闔境祈塵靜
大河懇順流
業兢欽付卑
顒帝錫祥週
Phiên âm:
Thủ tộ nghênh phồn chỉ,
Lí đoan mộc hạo hưu.
(nguyên đán ngự điện thụ hạ tức giáng chỉ yến lãi hữu sai thị nhật thiên khí tình hoà trung ngoại hân hoan thành vi khai thiều cát sự).
Trọng Nhâm an vạn vật,
Kim tuế Nhâm Thìn chính nguyệt Nhâm Dần án Sử Kí Luật Thư hữu vân: nhâm chi vi ngôn nhậm dã ngôn dương khí nhậm dưỡng vạn vật vu hạ dã.
Nhuận tuất phú tam thu.
(Bản niên nhuận cửu nguyệt thuyết văn vân ngũ hành thượng sinh ư mậu thạnh ư tuất tòng mậu hàm nhất dã).
Bái trạch tân xuân hiệp,
Thị triều cổ lễ tu.
Tuế thì nhưng phục thỉ,
Tiêu càn hựu tòng đầu.
Hạp cảnh kì trần tĩnh,
Đại hà khẩn thuận lưu.
Nghiệp cạnh khâm phó ti,
Ngung đế tích tường chu.
Tạm dịch
Đầu năm đón nhiều phúc,
Muôn vật khởi đầu tắm gội trời xanh.
Ngày đầu năm ngự trên điện nhận lời chúc tức thì giáng chỉ ban yến cho các quan, ngày này khí trời tạnh ráo ôn hòa, trong ngoài đều hân hoan, thành thực như là mở vận gặp việc tốt.
Lại gặp Nhâm vạn vật yên ổn,
Nhâm Thìn năm nay tháng giêng là Nhâm Dần căn cứ theo thiên Luật sách Sử Ký có nói: Nhâm là nói đến nhiệm vậy, nói khí dương nhận nuôi vạn vật ở dưới bầu trời.
Nhuận tháng Tuất giàu cả ba thu
Tháng 9 năm nay nhuận, Thuyết Văn nói Ngũ hành sinh ở Mậu, thịnh vượng ở Tuất, theo Mậu hợp thành một.
Ân trạch hòa hợp năm mới,
Lâm triều theo lễ xưa.
Bốn mùa lại trở lại từ đầu,
Việc chính sự cũng bắt đầu.
Cầu cho khắp nơi bụi trần tĩnh lặng,
Cầu cho sông lớn nước thuận dòng.
Sự nghiệp giáo phó cho kẻ hèn,
Ngưỡng vọng vua ban điềm lành cả năm.
Về mô típ trang trí rồng
Theo cách trang trí biểu tượng của người An Nam xưa (Việt Nam ngày nay) thì có bốn con vật có năng lực siêu nhiên, gọi là tứ linh, chiếm vị trí hàng đầu. Đó là con rồng, con nghê, con chim phượng hoàng, và con rùa. Công dụng của chúng mang một ý nghĩa tôn giáo là do sự biểu thị của chúng, các con vật này mang lại nhiều ý nghĩa phẩm chất mà chúng có hoặc chúng tượng trưng cho một ý nghĩa nào đó.
Cũng mang những ý nghĩa tương tự như vậy, nhưng ở một cấp độ ít hơn có nhiều con vật khác đã tạo ra một nền mỹ thuật An Nam như con hạc, con sư tử, con dơi, con cá. Tất cả đều nói lên một lời cầu chúc mang ít nhiều đặc tính tôn giáo. Cũng vậy con hổ mang tính chất này theo một cách đáng lưu ý hơn, vì hình ảnh con hổ đôi khi là đối tượng của một sự thờ tự riêng, bởi vì có việc thắp hương cúng ông hổ, và người ta dùng hình ảnh con hổ như là một thứ bùa yểm đầy tính thiêng hóa để vô hiệu hóa hoặc đuổi xa những ảnh hưởng xấu của loại tà ma quỷ quái.
Một trong số những hình tượng tiêu biểu cho cách trang trí của người An Nam xưa đó là hình ảnh con rồng. Rồng, tiếng Hán - Việt nghĩa là long, tiếng Việt gọi là rồng, là một con vật thường được dùng đến nhất trong mỹ thuật của người An Nam. Trong các cung điện là nơi cư trú riêng của con rồng, bởi vì nó tượng trưng cho hoàng đế, nhưng người ta cũng thấy rồng xuất hiện trong các đền chùa và các nhà từ đường, trên lườn nóc vách mái, trên các vách trái nhà, trên các đà chạm của bộ sườn nhà, trên các đồ gỗ và trên vải lụa, trên các biểu mẫu chén bát ăn cho đến các cây cảnh nhỏ mà người ta uốn nắn cho nó lớn lên theo dạng con rồng.
Nói một cách chính xác hơn là, con rồng không phải được người An Nam tôn thờ, nhưng họ thấy ảnh hưởng siêu nhiên khắp nơi của con rồng như là vị vua dưới nước và vị chúa tể trái đất; hạnh phúc của người sống và sự yên ổn của người chết đều phụ thuộc vào con rồng.
Theo truyền thống của người Trung Hoa, con rồng có những nét đặc trưng là: nó có những cái sừng của con nai, một cái đầu của con lạc đà, những con mắt của quỷ sứ, cái cổ rắn, cái bụng cá sấu, những lớp vảy cá, những móng nhọn của chim đại bàng, những lỗ tai bò, nhưng ở nơi con rồng thì chính những cái sừng là trung tâm của thính giác.
Hình ảnh con rồng được biểu trưng cho người chồng, vị hôn phu, nói một cách chung nhất là biểu tượng cho người đàn ông. Người phụ nữ thì được biểu trưng bằng con chim phượng hoàng. Trong thơ văn dân gian thường ẩn dụ để nói đến hình ảnh này, và khi người ta thấy một bức thêu mà có con rồng phối hợp với chim phượng hoàng, thì đó là điều mà người ta muốn nói đến một cuộc hôn nhân.
Trên các lườn nóc nhà, con rồng được trình bày hai lần đối xứng nhau. Chính giữa lườn nóc nhà người ta đặt hình ảnh một quả cầu lửa, hai con rồng quay đầu về hướng quả cầu đó. Toàn bộ quả cầu và hai con rồng được chỉ rõ bởi thành ngữ lưỡng long triều nguyệt, nghĩa là hai con rồng kính cẩn chầu mặt trăng.
Một mô típ cũng gần với mô típ trên là lưỡng long tranh châu, nghĩa là hai con rồng tranh nhau một hạt ngọc quý, ở đây cũng vậy, rất thường phải thấy có sự lẫn lộn giữa hai đề tài này, hoặc ẩn trong quan niệm của các nghệ nhân. Trong trường hợp lưỡng long tranh châu, thì những con rồng được cho là hơn thua để tranh một hạt ngọc, hạt ngọc này là một quả cầu không có ngọn lửa.
Trong tất cả các trường hợp trên, ít nhất là khi những trường hợp cho phép làm điều này, con rồng được bao bọc trong những đám mây, chữ Hán gọi là vân, mây kéo thành từng dải cuộn lại từng cuộn trông rất đẹp. Trong trần lăng vua Khải Định ta thấy có bức tranh cửu long ẩn vân, chín con rồng nằm ẩn trong mây là một bức tranh nổi tiếng.
Ngoài những mô típ trang trí con rồng riêng thì còn có sự pha trộn giữa con rồng và các con khác như với con cá gọi là cảnh ngư long hý thủy, cá và rồng đùa vui trong nước… tất cả tạo nên những bức tranh về rồng sinh động lạ thường.
Dù cho rồng được trang trí ở trong các lăng tẩm cung điện, hay các đình chùa đền miếu, thì những tưởng tượng sinh động của các nghệ nhân về con rồng vẫn là hình ảnh thiêng hóa. Một thông điệp mà các nghệ nhân muốn gửi gắm vào hình tượng rồng như là sự tôn kính về một vị hoàng đế, một biểu tượng lớn lao mà ai cũng mong được hướng tới.
N.H.K