Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 30/01/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Nước non ngàn dặm

Đầu năm 1973. Sau mấy lần lặn lội quanh miệt Đường 9, Đông Hà, Hướng Hóa, Triệu Phong..., sáng 29 tháng chạp ta, chúng tôi ngược ra Bắc tìm về thị trấn Hồ Xá, nơi nghe nói một vài cơ quan chủ chốt của Đặc khu Vĩnh Linh đã quay về dựng tạm trụ sở trên nền đất cũ, xem phiên chợ tết Hồ Xá, và ngạc nhiên hay tin hai đồng chí Bí thư Trung ương Đảng Lê Văn Lương và Tố Hữu vừa mới từ Hà Nội vào.

Tôi không được gặp hai anh ngay tại Truông nhà Hồ. Anh Lê Văn Lương đã về luôn làng địa đạo Vịnh Mốc, để từ đây đáp thuyền gắn máy thẳng ra đảo Cồn Cỏ thăm các chiến sĩ cắm chốt từ bao lâu trên đảo nhỏ anh hùng. Gặp Trưởng đảo Thái Văn A đang đứng chờ ở chân đảo, gần mặt nước, hai người chưa từng quen biết ôm chặt lấy nhau, và hai người chiến sĩ dạn dày thuộc hai thế hệ xa nhau về tuổi đời cùng tuôn nước mắt. Anh Lê Văn Lương nói: “Ôm Thái Văn A, tôi ôm cả đảo Cồn Cỏ vào lòng”. Nhà thơ Tố Hữu thì đã vào xã Cam Thanh bên bờ bắc sông Hiếu, nơi Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đóng tạm cơ quan, làm việc với lãnh đạo tỉnh. Đường vào như tỉnh như mê / Đường ra phía trước, đường về tuổi xuân. Tôi nhẩm tính, năm nay anh Lành chạm mốc tuổi năm mươi ba, do chợt nhớ một câu thơ anh làm một dịp nào đó kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga 1917: Liên Xô sinh trước đời tôi ba tuổi... 

Hồi ấy, chưa một cơ quan nào có thể đặt chân xuống thị xã Đông Hà chỉ còn  những đống gạch ngói,  tông đổ nát ngổn ngang và đầy rẫy mìn, bom bên dưới. Không hiểu tại sao  Cam Thanh, cách Đông Hà có mỗi một chặng ngắn, càng rất ngắn tính theo đường chim bay lại còn nguyên vẹn một vài khu vườn cây mít, ổi, thơm... cây cối không chịu phạt ngang như ở mạn bờ nam sông Hiếu, từ ngã ba Đường 9 về làng Đạo Đầu thuộc huyện Triệu Phong hay vào truông Ái Tử ở phía bắc sông Thạch Hãn nơi có cái sân bay dã chiến rộng mênh mông quân đội Mỹ làm bằng những tấm sắt thép có những lỗ tròn đều dài vô tận trên trảng cát khô. Tôi cứ ngẩn ngơ trước cảm giác vừa ngạc nhiên vừa thích thú, không hiểu nhờ sự thần kỳ nào, nhiều cây ở đây vẫn gần như nguyên vẹn, lá xanh vẫn tươi, một số cây mít già đầu cành vẫn nung núc những trái non bắt đầu thành hình, mới nhỉnh hơn trái mãng cầu một chút. Ngay xế căn nhà xập xệ tôi nghỉ nhờ mấy tháng, vẫn nguyên vẹn một cái bến xây bậc cấp tráng xi măng hẳn hoi dẫn từ bờ sông thường khá cao so với mặt nước dưới dòng, trừ những ngày vào mùa lũ lụt, bậc cấp cuối chìm xuống đâu dưới mặt nước, sáng sáng tôi theo cái bến ấy thoải mái xuống sông vốc nước rửa mặt, rồi cuối ngày, sau bữa cơm chiều lại xuống đó giặt khăn lau người và rửa đôi chân lúc nào cũng lấm láp bụi đường đất đỏ.

Đúng vào chiều ba mươi Tết, một cuộc mít tinh được tổ chức ven con sông Hiếu ấy, trong một khu vườn rộng trồng mít, ổi cận kề cái bến xi măng tôi vừa kể ở trên. Dân Cam Lộ ngày xưa trồng mít không nhằm bán trái, bởi vườn nhà ai chẳng có mít, trái mít còn non thì dùng làm rau sống, làm nộm, muối dưa..., không chờ đến mít chín vì vào thời an bình, có gánh mấy trái mít nặng trịch và tỏa mùi thơm lựng ra ngồi ở chợ Huyện, chợ Hôm cũng chẳng mấy ai buồn ngó tới. Ở làng quê tôi xưa, nhà nào làm ăn khá giả nên cũng muốn dựng một ngôi nhà rường thượng mít hạ gõ (các xà ngang và đòn tay làm bằng gỗ mít nhẹ hơn gỗ gõ và dễ chạm khắc hơn các đầu con lân con phượng cùng hoa lá, các cột dựng bằng gỗ gõ sẽ bền vững vô cùng, cha truyền con nối phụng thờ tiên tổ). Khi viết mấy dòng hồi ức này, để tránh nhầm lẫn tôi lục tìm cuốn sổ tay bé xíu vẫn đút thường xuyên trong túi áo ngực những ngày bôn ba trên đất Quảng Trị, Vĩnh Linh những ngày tháng đầu năm 1973 ấy, kiểm tra tư liệu. Gặp một dòng chữ loằng ngoằng: “Tối 29 tết (1-2-73). Biểu diễn văn nghệ ở Vĩnh Linh. Buổi liên hoan (có) a Lành, a Lương, a Thành + ĐU VL”. Kỳ lạ thật! Bao năm viết về Vĩ tuyến 17 những ngày lịch sử tháng 1 năm 1973 ấy, không hiểu sao tôi quên bẵng buổi biểu diễn văn nghệ trong hoàn cảnh đặc biệt, và chưa một lần nhắc tới trong bao bài viết suốt mấy chục năm qua về những mẩu chuyện kể đi viết lại hoài không chán. Và cũng thật bất ngờ, đêm biểu diễn nghệ thuật trên đất Vĩnh Linh trong tiếng đạn pháo tầm xa từ phía nam sông Thạch Hãn vọng về ấy lại do nhạc sĩ Thuận Yến, anh chàng nghệ sĩ tài hoa quê ở nam Hải Vân Quan điều hành, và chừng mười lăm năm sau, khi tôi được điều về Đài Tiếng nói Việt Nam kế nhiệm Tổng Giám đốc Trần Lâm, tôi đã mời nhạc sĩ Thuận Yến về làm Trưởng Ban biên tập Âm nhạc của Đài mà không hề nhớ và hai anh em cũng chưa có dịp chuyện trò với nhau về đêm nhạc bên cầu Hiền Lương ấy.

Trở lại với cuốn sổ tay. Trang tiếp ngay sau: “30 tết (2-1-73). Đài Hoa Kỳ thừa nhận ở Cửa Việt, 300 LTĐB (lính thủy đánh bộ) - tức 2 C bị Việt cộng diệt. Vẫn còn 20 xe tăng nhưng (quân Mỹ) đành chịu thất bại, và tất cả đã rút lui. Trở lại Đông Hà, tôi gặp mấy bà con người xã Hải Thượng sơ tán ra Cam Lộ đang đi dự mít tinh...”.

Đó là cuộc mít tinh trong khu vườn mít bên bờ sông Hiếu tôi vừa kể ở trên.

Trận đánh quyết liệt ở Cửa Việt đã kết thúc, Mỹ chịu thất bại, ta cũng tổn thất nhiều, dù súng đại bác của một số đơn vị quân Sài Gòn ngoan cố vẫn bắn vu vơ lên vùng giải phóng. Chốc chốc một loạt đạn chỉ vài ba quả lại nổ khi gần khi xa. Trong vườn mít, đồng bào mấy thôn lân cận, kể cả đồng bào từ các huyện Hải Lăng, Triệu Phong tránh giặc ra đây cùng một số đơn vị thay mặt các lực lượng vũ trang đã xếp hàng ngay ngắn, vẻ mặt ai nấy đều có vẻ nghiêm trang. Trong khi ổn định hàng ngũ, chờ hai đồng chí Trung ương đến khai mạc, tôi cứ lan man ngẫm ngợi những kỷ niệm chẳng đâu vào đâu thuở ấu thơ.

Anh Lê Văn Lương thay mặt Ban Bí thư Trung ương nói mấy câu ngắn gọn mở đầu, chúc Tết đồng bào, chiến sĩ tỉnh Quảng Trị vào lúc tiếng súng mới tạm ngừng. Anh Tố Hữu tiếp lời, nói có dài hơn. Có tiếng ai đó đề nghị với Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh, hãy mời bà con ngồi xuống nghe nói chuyện cho đỡ mỏi chân. Đây là nếp sống hằng ngày trong vùng bom đạn, trong mọi sinh hoạt, con người càng gần mặt đất càng yên tâm hơn trước những loạt đạn đến bất ngờ. Tiếng đại bác chiều ba mươi Tết vẫn tiếp tục nổ rời rạc vu vơ, và đồng bào do quá quen với nhiều trận bom ác liệt gấp trăm ngàn lần, chẳng ai buồn quan tâm đến những phát đạn lờ đờ ấy, dù cũng có tiếng nổ nghe chát chúa, có nghĩa viên đạn vừa rơi kề đâu đây. Riêng tôi rất sợ. Lúc này đã sâm sẩm tối. Sợ chẳng may có một tên gián điệp báo cho quân bên kia rõ địa điểm cuộc mít tinh, rồi mấy quả đạn đại pháo rót đúng xuống khu vườn mít đây, vào lúc này... Ai bình thản lắng nghe, ai lo sợ bồn chồn mặc ai, nhà thơ xứ Huế vẫn bình thản chuyện trò với bà con qua giọng trầm xứ Huế ấm áp của anh. Lâu rồi, anh Lành mới có dịp tuôn ra cái vốn mô tê răng rứa gợi nhớ quê mẹ quê cha dù nhà lãnh đạo đang... phân tích thời cuộc:

Sông Bến Hải bên bồi bên lở

Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương

Cách ngăn mười tám năm trường

Khi mô mới được nối đường vô ra?

Bây giờ cầu lại bắc qua

Ván thơm gỗ mới cho ta gặp mình...

Sông Bến Hải - Ảnh: Nông Văn Dân

Sông Bến Hải - Ảnh: Nông Văn Dân

Đêm hôm ấy, đêm ba mươi Tết, đêm trừ tịch, đêm giao thừa, theo yêu cầu của nhà thơ, Tỉnh ủy Quảng Trị sắp xếp để anh nghỉ qua đêm tại một căn hầm nửa nổi nửa chìm giữa một trảng cỏ tranh cao tốt (hầm làm nơi trống trải, không có cây to rậm rịt như trong rừng, thì càng hay cho sự nghi trang) cùng với anh cận vệ và cô con gái út của anh. Vừa mới vào đầu bữa ăn tối, anh Lành đã rỉ tai tôi: “Đêm nay mình đón giao thừa bên tê sông, Phan Quang có muốn cùng đi?”.

Xe tôi cùng anh bạn nhà báo bám sát sau xe anh. Nhưng đêm tối mò, đúng là đêm trừ tịch, đường sá lại xa lạ lên dốc xuống đồi, khi tới được nơi nghỉ, anh em bảo vệ sắp xếp cho nơi giấu xe và chỉ chỗ cho ba anh em tôi nghỉ đêm trong một căn hầm lẩn khuất trong trảng cỏ tranh đang mùa xanh tốt.

Căn hầm chúng tôi nằm chờ đón giao thừa ấy khá thoáng - nghe nói trước là nơi làm việc của một cơ quan trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Trị - không chật chội như các căn hầm chữ A, ba anh em mắc võng nằm thoải mái. Mệt quá tôi ngủ thiếp ngon lành.

Sổ tay: “Ngủ một giấc, tỉnh dậy lúc 11 giờ đêm.

Sắp đến giao thừa  phía nam. Đài Sài Gòn vừa báo: “Còn 30 phút nữa đến giao thừa”(*). Pháo vẫn nổ rập rình. Có hàng pháo sáng phía bên kia bắn lên trời, sáng rực dọc sông Hiền Lương. Lính ta thỉnh thoảng cũng bắn vu vơ! Qua Đài TNVN nghe tiếng chuông đồng hồ Nhà thờ Lớn Hà Nội dõng dạc điểm mười hai tiếng. Giao thừa! Nơi đây chúng tôi lại vừa nghe một tràng súng liên thanh mấy anh bộ đội ta bắn chơi, bất chấp kỷ luật..., tiếng pháo tết Hà Nội nổ ran qua làn sóng phát thanh hòa vào tiếng súng chiến trường, chủ yếu là đạn súng liên thanh FM 12 ly 7...

...Tôi bước lên khỏi căn hầm. Những người tôi gặp đầu tiên khi xuất hành năm mới này là hai đ.c. bộ đội đi tuần tra, cứ dăm bước hai anh lại dùng đèn pin soi bốn phía, miệng một anh hát khe khẽ. Bầu trời được đạn pháo sáng của phía bên kia bắn lên chói rực...”.

Đêm giao thừa năm Quý Sửu 1973 ấy, hầu như tất cả chúng tôi ai nấy đều thức. Tôi vặn to cái radio bán dẫn, gặp đúng vào lúc nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm bài thơ của chính anh Lành:

Khao khát trăm năm mãi đợi chờ

Hôm nay vui đến ngỡ trong mơ.

Sau khi đón giao thừa tại vùng mới giải phóng phía nam sông Bến Hải, sáng mùng một Tết tôi vội ra Quảng Bình dự buổi đồng chí Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng nói chuyện với cán bộ chủ chốt hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. (...) Tiễn anh Ba về Hà Nội từ sân bay Đồng Hới, tôi lại vào Vĩnh Linh, lại gặp anh Tố Hữu. Anh hào hứng:

- Mình có kế hoạch làm một chuyến đi xa, đi sâu nữa vào tận trong kia. Nhưng hôm nay có việc khẩn, phải ra Hà Nội cái đã... Dù sao mình cũng cố gắng sắp xếp công việc để làm kỳ được chuyến đi. Anh Phan Quang chờ mình ở đây nhé. Chừng dăm hôm nữa mình từ Hà Nội vào, anh em ta cùng nhau làm một chuyến đi xa. Chắc chắn rồi sẽ thú vị đấy. Nhớ chờ mình ở Quảng Trị đây nghe!

Hôm ấy mới mùng năm Tết. Tôi chờ anh suốt cả tuần, không dám đi đâu xa, không ngờ chiếc xe dã chiến giở chứng, anh lái xe bảo phải ra Quảng Bình may ra mới tìm được xí nghiệp sửa xe quân dụng, và cũng chỉ  ngoài đó mới tìm được phụ tùng thay thế.

Tiếc thay, sau khi sửa xong xe, chúng tôi quay lại Vĩnh Linh thì được biết anh Tố Hữu vừa vào đây chiều hôm trước và sáng nay đoàn của anh đã đi tiếp luôn rồi. Anh em Quảng Trị cũng tiếc cho tôi: “Anh Lành suốt cả buổi chiều và cả trong bữa cơm tối hôm qua, cứ bảo chúng tôi cố tìm bằng được ông Phan Quang, nhưng nhà báo các anh như cánh chim bay trên trời, biết nơi mô mà tìm!”.

Sau chuyến đi dài ấy trở về Hà Nội, nhà thơ tranh thủ mấy kỳ nghỉ cuối tuần lên sườn núi Tam Đảo viết bài trường ca Nước non ngàn dặm:

Bàng hoàng... như giữa chiêm bao

Trắng mây Tam Đảo tuôn vào Trường Sơn

Dốc quanh sườn núi mưa trơn

Tưởng miền Nam đó, chập chờn hôm mai

Đường đi... hay giấc mơ dài

Nước non ngàn dặm, nên bài thơ quê.

Dường như thông cảm nỗi niềm của nhau, khi rút cây bút từ túi áo ngực ra ghi dòng đề tặng tôi tập thơ vừa mới in xong, nhà thơ vừa viết vừa cười tủm tỉm:

“Tặng anh Phan Quang bạn đường yêu mến

Tố Hữu, 8-1973”

___________________

* Trước tháng 4 năm 1975, miền Bắc nước ta dùng múi giờ GMT+7, trong khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa dùng múi giờ GMT+8, vì vậy giao thừa Sài Gòn đến sớm hơn giao thừa Hà Nội 1 tiếng.

PHAN QUANG
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 364

Mới nhất

Thượng Lập - nơi ươm mầm cách mạng

28/01/2025 lúc 23:15

Quê ngoại - làng Hàm Hòa, xã Vĩnh Long là nơi tôi gắn bó từ tấm bé cho đến

Kỷ nguyên mới từ xuân này

28/01/2025 lúc 23:09

Trước ngày 22 tháng 12 năm 2024, tôi và mấy phóng viên Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Trị

Mùa xuân chân phương

28/01/2025 lúc 23:04

“Chân phương” là từ hay dùng của ba tôi. Với ba, mọi thứ nên chân phương. Tết đến xuân về,

Tân xuân xóm vạn thuở lênh đênh

28/01/2025 lúc 23:02

Nếu sớm đầu năm thong thả đạp xe ra đôi bờ sông Hiếu, cảm nhận được chút gió đông đi

Tết đang về trong mỗi khu vườn

28/01/2025 lúc 22:46

Cuối năm miền Trung thỉnh thoảng mưa lây phây, gió trời se lạnh. Mùa xuân rất gần mà tưởng còn

Khoảnh khắc đáng yêu của cuộc sống

26/01/2025 lúc 22:57

Tôi ngồi trên cỏ, nước mắt lăn dài trên má. Đó là một trong những khoảnh khắc mà tôi biết chắc sẽ ở lại với tôi và thay đổi tôi mãi mãi.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

31/01

25° - 27°

Mưa

01/02

24° - 26°

Mưa

02/02

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground