N |
hư một nơi bất kỳ trên trái đất, ngày mới bắt đầu trên đảo nhỏ Cồn Cỏ là bình minh. Nhưng tôi có cảm giác rằng hình như ở đây mặt trời xuất hiện sớm hơn ở đất liền một khoảng thời gian là tích tắc. Cái tích tắc “vô cùng bé” ấy không đủ để cho một cô gái vươn vai thức dậy vào mỗi sáng sớm nhưng nơi đây, chỉ bằng chút xíu thời gian đó thôi là đã cảm thấy tất cả sóng, gió, biển, mặt trời ở tọa độ 17 độ 10 phút vĩ bắc – 107 độ 20 phút kinh Đông của vùng biển Tổ Quốc. Nghĩa là chính nơi đây, chàng lính trẻ trong ca gác đêm cuối cùng sẽ nhìn thấy mặt trời lên trước tất cả các đồng đội, đang tỏa thứ ánh sáng trong suốt, mềm mại và tinh khiết đầu tiên trên từng mẩu đất, bờ đá, lá cây Cồn Cỏ, khi chú trống khoai trong chuồng phốc ra giữa sân nhà lổn nhổn san hô, đập cánh gáy ò ó o…
“ Tổ quốc, tiếng gà trưa” là tựa đề của bộ phim nhựa rất hay về Bác Tôn, một chiến sĩ cộng sản từng bị tù đày ở Côn Đảo. Xem phim, tôi chợt nao lòng với hình tượng tiếng gà trưa cất lên từ trong ngục thất, bay qua song sắt nhà giam quyện cùng tiếng sóng. Đó có phải là tiếng của Đất Mẹ không? Có phải là âm thanh của quê hương, làng bản, là tiếng đòi tự do không? Những ngày sống với Cồn Cỏ, trong cảm giác mênh mông bốn bề gió thổi, trong nỗi nhớ đất liền, tiếng gà trưa cất lên giữa mênh mang là sóng càng da diết hơn…Và trong những ngày ấy tôi nhận ra tất cả những gì bình dị và thân thương của Tổ quốc mỗi sáng, mỗi trưa, mỗi chiều ngong ngóng nhìn vào phía đất liền có những dãy núi mờ xanh. Đã nhận ra nét đáng yêu của những chàng lính trẻ tuổi đôi mươi đen cháy làn da vì sóng gió Cồn Cỏ. Trong tôi, Tổ quốc bắt đầu từ tiếng gà gáy sáng, Tổ quốc nôn nao trong tiếng gà trưa, Tổ quốc đằm sâu trong tiếng chim chiều gọi bầy bay về tổ. Tôi đã từng chứng kiến có năm giữa mùa gió đông bắc, lạnh căm căm, cả tháng trời mịt mù không một chuyến thuyền cập đảo, gạo đã bị ẩm mốc nhiều, thực phẩm gần hết…Giữa cái bức bối thường tình của lính đảo ấy bỗng dưng từ đâu ào đến một đàn cò trắng. Đúng là cò trắng tinh, không rõ bằng cách nào mà chúng vượt được quãng đường 14 hải lý từ đất liền ra đảo? Có lẽ chúng bị gió mùa thổi dạt và nhiều con đã bỏ thân dọc đường…Đàn cò trắng tội nghiệp di trú trên đảo, đậu trên những tán cây trụi lá trong rừng. Lính ta thoạt đầu có ra đuổi bắt về xẻ thịt nấu ăn nhằm bù vào lượng thiếu hụt ca lo lâu ngày, nhưng sau rồi thấy chúng thương quá, cứ đứng co ro không còn chút sức để mà trốn chạy, rồi thôi…Thế là đàn cò trắng ở lại với lính đáo suốt mùa đông bắc, ngày vắng chúng lẩn khẩn kiếm ăn trong những vũng nước đọng trong hố bom Mỹ còn lại, ngày mưa rét quá chúng nấp trong chiến hào, lô cốt; chúng làm bạn cùng đàn gà, đàn lợn lính đảo nuôi. Cò trắng đã thực sự trở thành thành viên của đảo, thân thiết và yêu mến. Những anh lính vốn bạn cùng ruộng đồng, đất bãi khi nhớ nhà thì ra mà ngắm đàn cò trắng hiền lành rồi mơ ước. Quê nhà như gần lại, vậy thì mang sáo ra thổi một điệu ca đồng bằng Bắc bộ “Cái cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”. Tiếng sáo quyến rũ kỳ lạ, chẳng ai có thể dừng được…Nhưng mùa xuân đã đến, biển đã xanh trở lại, nắng đã vàng ươm trở lại. Một buổi trưa, bất ngờ đàn cò trắng tập trung đội hình rồi bay lượn nhiều vòng quanh đảo. Đàn cò trắng sắp bay đi! Tin truyền nhanh như báo động, từ đài quan sát truyền đến tất cả các khẩu đội. Lính đảo bỏ dỡ bữa cơm trưa, chạy nhanh ra ngoài sân tạm biệt cò trắng. Phải rồi, chỉ với bầu trời nhỏ bé 4km2 đảo sao giữ nỗi cánh cò vốn quen với những cánh đồng bay thẳng cánh. Tạm biệt cò trắng, chúc mày trở về đất liền bình an! Và thật kỳ lạ, đàn cò trắng đã lượn vòng cuối cùng thật đẹp ngay trên Đài tưởng niệm liệt sĩ Cồn Cỏ, không ai tiếp tục bữa cơm nữa, gương mặt ai cũng đau đáu một nỗi niềm. Cả đảo lặng thinh, chỉ nghe tiếng sóng. Rồi trong khoảng lặng thinh yên ả ấy bỗng vút lên “ò…ó…o!”. Đích thị là tiếng gà của “thằng” trống Đốm. Chỉ có nó là hay gáy trưa thôi! “Tiếng gáy của thằng Trống Đốm cũng từng trải qua nhiều trầm luân trên đảo. Nó vốn là quà tặng, của người yêu một chàng lính rất trẻ, đẹp trai có tên là Trần Công Thành, quê ở Quảng Bình. Ngày ấy, mới ra đảo, dĩ nhiên chưa quen với sóng, chưa quen với cái mênh mông khoáng đạt của biển và chưa quen với nỗi nhớ đất liền nên một hôm Thành đã…bỏ trốn, tức là đào ngũ? Chao ôi, thật là tội tày đình! Thành lẻn trốn bằng cách nào, khi mà tất cả các chuyến thuyền ra vào đảo đều được kiểm soát chặt chẽ? Trung đội trưởng cử một tiểu đội xông vào rừng tìm xem vì nghi có thể Thành bị rắn lục cắn. Không thấy! Lại cử một tiểu đội đi dọc theo bờ đảo tìm xem vì nghĩ có thể Thành đi tắm biển một mình bị tai nạn. Không thấy! Tiếp tục cử một tiểu đội chui vào các đường hầm, lô cốt, công sự tìm xem Thành có điều chi ẩn ức mà làm điều dại dột không? Vẫn không thấy! Vậy là Thành đảo ngũ rồi, trốn rồi, chao ôi thật là nhục nhã! Nhưng bỏ trốn bằng cách nào? Toàn trung đội đang ôm đầu đau đớn và suy nghĩ Thành rời khỏi đảo bằng cách nào, sau một đêm thức dậy gương mặt ai cũng bơ phờ, hốc hác, nhất là trung đội trưởng Phương, trông anh già thêm vài tuổi thì đột ngột nhìn thấy đúng Trần Công Thành đứng nghiêm trước cửa: “Báo cáo trung đội trưởng, tôi có khuyết điểm tôi xin chịu kỷ luật”. Trung đội trưởng Phương vừa mừng vừa giận: “A..a…cậu Thành! Từ trưa hôm qua đến giờ cậu trốn đi đâu? Hả? Mau về viết bản tường trình và kiểm điểm nhận hình thức kỷ luật, thấp nhất là cảnh cáo! Rõ chưa?”
Thành viết bản tường trình: “Buổi trưa không ngủ được, tôi ta mỏm Con Hổ nhìn vào đất liền và đếm từng con sóng. Tôi nhớ nhà lắm, người yêu tôi ngày mai lên đường vào Huế học đại học. Tôi yêu nàng, thầm chúc cho nàng gặp nhiều may mắn và học thật giỏi để bằng chị bằng em. Đêm nay bạn bè sẽ đến chia tay nàng đi học và sẽ không có tôi, người có ý nghĩa nhất khi nói lời chúc mừng! Nàng sẽ buồn lắm. Ôi, nàng buồn làm sao tôi chịu nỗi? Ước chi mình bay được, mình bay về nhà chỉ trong một đêm thôi, sáng mai mình bay lại đảo, anh em không ai biết vì đêm nay có trận bóng đá Uân-cúp mọi người sẽ không để ý mình vắng mặt đâu…Mà vẫn kịp đấy, cần chi phải bay được mình vẫn có thể ở nhà đêm nay. Bây giờ là 11 giờ 30 đi nhờ thuyền dân vào Cửa Tùng mất hai tiếng vì có gió nồm; đi xe ôm lên Hiền Lương mất 45 phút, bắt xe tốc hành ra Đồng Hới mất hai tiếng rưỡi nữa…Tất cả chỉ với 5 tiếng 15 phút là đã có mặt ở nhà…Thật đẹp! Mình sẽ bên nàng! Vậy là đã thảo xong kế hoạch, duyệt!
Tôi bước xuống âu thuyền nói với bác chủ thuyền đang tát nước trong khoang: “Bác cho cháu đi nhờ vào Cửa Tùng với”. Bác chủ thuyền nghiêm khắc: “Cậu vào bờ phải được phép chỉ huy, tôi không dám chở đâu!”, “Cháu được chỉ huy giao nhiệm vụ vào bờ mua gà về chăn nuôi mà, sáng mai cháu trở lại đảo thôi”. Và nhanh chóng tôi nhảy xuống, cởi áo, tát nước giùm. Tổ kiếm soát quân sự không để ý đến tôi vì tưởng tôi là một ngư dân chính, cho qua…Thuyền nổ máy, lướt băng về đất liền. Tôi ngồi trên mũi thuyền, tự thỏa mãn với bước đầu kế hoạch đã trót lọt”. Mua gà, không hiểu sao lúc ấy tôi nghĩ ra cái lý do dễ thương đến vậy để nói dối bác ngư dân già…Khi hòn đảo chỉ còn một vết xanh mờ ở sau lưng, tôi bắt đầu áy náy, phân vân: Mình về biết nói sao với nàng và mọi người ở nhà, thôi rồi, mình đão ngũ rồi! Trước khi nhập ngũ cha mình từng dặn mình tất cả 10 điều, trong đó không được đảo ngũ là điều đầu tiên. Thôi chết rồi, mình vi phạm điều cha dặn rồi, vi phạm kỷ luật rồi. Chiều nay ăn cơm không thấy mình anh em trong tiểu đội sẽ đi tìm, trung đội sẽ đi tìm có khi mất luôn trận Uân-cúp cũng nên? Phải trở lại đảo ngay thôi, khẩu súng của mình chiều nay ai lau chùi nó? Cả rổ lá vằng mình phơi trên nóc lô cốt để đun nước có ai biết mà đem về không? Để qua đêm sương muối là hỏng…Vậy là sau khi cập bờ tôi đi hỏi xem có thuyền ra đảo không, không có, đành phải chờ đến sáng nay mới ra được. Tôi thành thật xin nhận khuyết điểm và hứa sẽ sữa chữa, không vi phạm kỷ luật nữa”.
Trần Công Thành sau đó bị cả trung đội “phê” một trận tơi bời, nào là “vô tổ chức kỷ luật”, là “thiếu ý chí, không tôn trọng đồng đội”, là “ích kỷ, cá nhân”…Nhưng anh em thương tình, không ai đề nghị xử lý kỷ luật vì xét thấy bình thường Thành rất tốt, trung thực, thương yêu và hay giúp đỡ người khác, lại là cây văn nghệ tài hoa của trung đội. Với lại, chiếu theo điều lệnh, Thành vắng mặt chưa đến 24 giờ nên “tạm tha”, “tiếp tục theo dõi”..
Câu chuyện ấy không hiểu sao người yêu Thành biết được, nàng cũng rất buồn và kỳ nghỉ hè đầu tiên trong đời sinh viên, nàng dành một tuần ra thăm đảo, thăm Thành. Càng gần đến ngày hẹn, cả trung đội càng xôn xao chờ đợi và khu vực doanh trại càng sạch đẹp hơn. Sau giờ huấn luyện, công tác lính ta tỉa tót tóc tai, đơm lại cúc áo, giặt giũ cẩn thận. Trung đội trưởng Phương chỉ đạo cho tổ hậu cần “đẩy mạnh công tác tăng gia”, tích cực câu cá, lặn ốc để dành đặc sản Cồn Cỏ nghênh tiếp khách quý…Và nàng đã đến, nàng bước lên âu thuyền bê tông giữa “vòng vây” của toàn trung đội. Nàng mang theo bao nhiêu là quà, thứ nào cũng hấp dẫn: Bánh kẹo, thuốc lá, một chai rượu Kim Long, tem thư, phong bì và gì kia? Cái gì lục cục trong này thế em? – Thành ôm một hộp các-tông có buộc nơ xanh đỏ và bọc kín bằng giấy bóng kim tuyến y như quà sinh nhật, hỏi nàng. Nàng lại cười, không nói. “Mở ra xem! Mở ra xem!” – Cả trung đội hét lên, đồng thanh! Thành hồi hộp mở, đây rồi, một chú gà trống nặng chừng nửa cân, lông đốm trắng, đốm đen! A, nàng trêu ta rồi! Nàng thật là thâm thúy, muốn nhắc ta kỷ niệm “đi mua gà” đây! Này Trống Đốm, mày ngây thơ thật chẳng biết gì! Mày vượt biển, nằm trong hộp các-tông mà không say sóng à?...
Từ đấy, Trống Đốm ở cùng trung đội, trông nó thật đáng yêu, chỉ bực một nỗi là giữa trưa nó lại gáy ò ó o không ai ngủ được. Có ý kiến: Thịt! Không được! – Thành nhảy ra giữa sân, nó là đồ “ Sú- vơ- nia” của nàng, ai giết nó phải bước qua xác ta! Thế là cứ buổi trưa Thành đành phải nhốt nó vào trong thùng phuy sắt sau hè nhà. Trong phuy sắt, tiếng ò ó o của Trống Đốm nghe có nhỏ hơn nhưng thấy âm u rờn rợn thế nào. Một trưa hè nắng quá, khi mở ra thì Trống Đốm đã ngất xỉu, nằm thiêm thiếp, cả trung đội xúm lại bón cho Trống Đốm từng thìa nước đường, nó mới qua khỏi. Trưa hôm sau Thành định mang Trống Đốm vào rừng, để cho nó gáy trong ấy không ảnh hưởng đến ai thì trung đội trưởng Phương ngăn lại: “Các cậu buồn cười thật, cứ để cho nó gáy ở đây, không sao cả. Ngày xưa, giữa trận bom người ta còn tranh thủ ngủ được, đằng này lại là tiếng gà! Các cậu phải tập quen với nó đi…”. Đúng là quen đi thật, mỗi trưa Trống Đốm cứ gáy ò ó o, ò ó o, tiếng gáy ngày càng vỡ ra, có “ giọng” hơn và trở nên thân thuộc với người lính đảo hơn. Nơi Trống Đốm vươn cổ ra ngoài biển, tiếng ò ó o của nó như một bè solo trên sóng biển rào rạt, du dương. Không còn thấy khó chịu, bực bội nữa. Trống Đốm cứ hồn nhiên gáy. Tiếng gà trưa nôn nao…Thành, thỉnh thoảng buổi trưa không ngủ, ra ngồi dưới gốc phong ba viết thư, ghi nhật ký, tai nghe Trống Đốm “sửa giọng” chuẩn bị gáy, mắt ngóng vào đất liền. Rất có thể nàng sẽ một lần nữa đến thăm đảo, bất ngờ lắm chứ?
Những câu chuyện này xảy ra đã lâu, khi tôi còn rất trẻ, là một trung đội trưởng trên đảo Cồn Cỏ. Giờ đây, có những đêm thành phố ngợp choáng hoa đèn, thoảng hoặc trong đêm giật mình tỉnh giấc, tưởng mình nghe thấy tiếng gà xôn xao từ đảo xa bay về, ò ó o…ò ó o…
T.H