Lễ rước Thành hoàng làng Phương Lang - Ảnh: N.Q
Truyền thống uống nước nhớ nguồn
Tục thờ cúng tổ tiên ông bà là một tín ngưỡng thiêng liêng, một nét đẹp cao quý của người Việt. Việc thờ cúng người đã khuất gắn liền với quan niệm về một thế giới khác sau khi qua đời. Đó là không gian thiêng tồn tại trong trường tâm tưởng mà con người luôn ngưỡng vọng, kính nhớ. Đi vào các ngôi nhà của người Việt, ta đều dễ dàng bắt gặp ngay một gian thờ/bàn thờ/khán thờ nằm ở vị trí trang nghiêm, thanh tịnh. Người ta dành nơi trang trọng nhất để thờ cúng ông bà tổ tiên.
Việc thờ cúng ở các làng quê Quảng Trị không chỉ gói gọn trong mỗi gia đình, mà những người cùng huyết thống nhiều đời còn hình thành nhà thờ chung (nhà thờ họ, nhà thờ phái, nhà thờ chi). Hằng năm, ở các ngôi nhà thờ chung này đều có các lễ cúng xuân thu nhị kỳ vào rằm tháng hai và rằm tháng tám, lễ giỗ, và lớn nhất trong năm là lễ chạp mả (tảo mộ). Lễ chạp mả là dịp con cháu tề tựu đi phát quang, tu sửa lăng mộ tổ tiên, sau đó cúng tế tại các nhà thờ họ, nhà thờ phái, nhà thờ chi.
Ngoài các tục lệ thờ cúng tiền nhân trong huyết thống, ở các làng quê Quảng Trị còn thờ cúng những người khai mở đất đai làng mạc. Những ngôi đình làng, miếu làng để tưởng nhớ các ngài khai khẩn, khai canh, Thành hoàng làng. Mỗi làng thường có một ngày giỗ chung trong năm gọi là cúng làng. Ngoài ra, một số làng còn có lễ rước Thành hoàng làng quy mô.
Chúng tôi từng được chứng kiến lễ rước Thành hoàng làng Phương Lang, một ngôi làng cổ ở huyện Hải Lăng. Tờ mờ sáng, đoàn rước sẵn sàng đội hình trước sân đình. Đi đầu đoàn là mười người mặc áo đỏ, tay cầm cờ hội và giáo mác trang nghiêm. Theo sau là đội chiêng trống. Trung tâm đoàn rước là chiếc kiệu được bài trí cẩn trọng. Đi kế bên là các bậc trưởng lão trong làng, đại diện các họ tộc, cùng các cụ ông trong lễ phục truyền thống, người dân làng nối tiếp phía sau. Tại miếu thờ Thành hoàng, một bản cáo văn viết trên giấy bổi màu vàng được trang trọng đặt vào gian thờ. Sau nghi thức đọc cáo văn, vị chánh tế sẽ xin ba nén nhang tại miếu - biểu tượng cho việc thành hoàng đã hiển linh. Ba nén nhang này được cắm vào bát hương đặt trên kiệu và rước về đình làng.
Tiền nhân được thờ phụng đôi khi không phải là một người có thật, mà xuất hiện theo kiểu truyền thuyết dân gian được người làng tôn sùng như một vị thần. Cũng ở làng Phương Lang, chúng tôi đến miếu Phủ Ông, nằm khuất sau những tán cây xanh mát ven bờ sông. Theo lời truyền miệng, ngày xưa có một viên tướng đi qua đất Phương Lang thì bị thương, phải dừng lại nghỉ ngơi tại nơi này. Máu ông chảy thấm xuống đất. Sau đó, nhà vua nghe chuyện, cho lập miếu thờ ở những nơi có vết máu của tướng quân, từ đó làng có miếu Phủ Ông. Đó là câu chuyện dân gian được lưu truyền qua nhiều thế hệ, gắn liền với một địa điểm linh thiêng của làng.
Tuy nhiên, điều khiến chúng tôi chú ý hơn là một câu chuyện khác, mang đậm màu sắc huyền thoại, do chính người dân làng kể lại. Có thể xem đây là phần “hậu truyện” do dân gian tự thêm thắt vào. Người xưa kể rằng, khi viên tướng bị thương đang nằm nghỉ, có một nhóm trẻ chăn trâu tình cờ đi ngang qua. Viên tướng hỏi bọn trẻ rằng mình bị chảy máu thế này thì liệu có chết không. Trẻ con hồn nhiên đáp: Không chết đâu. Lát sau, một người đàn bà đi tới, viên tướng lặp lại câu hỏi, và bà ta đáp rằng: Chắc là không qua khỏi. Từ sự khác biệt trong lời tiên đoán ấy, về sau dân làng tin rằng nếu trẻ con leo lên miếu Phủ Ông chơi thì không sao, nhưng nếu phụ nữ đến gần miếu thì gặp điều chẳng lành. Rất có thể câu chuyện được dệt nên như một lời răn, phản ánh quan niệm ngày xưa khuyên phụ nữ nên kiêng kỵ việc lui tới chốn linh thiêng như đền miếu. Dẫu không thể kiểm chứng thực hư, nhưng câu chuyện ấy vẫn hiện diện như một nét tín ngưỡng dân gian đầy màu sắc huyền bí.
Tiền nhân được thần hóa không chỉ đàn ông mà còn cả đàn bà. Chẳng hạn ở làng Lệ Xuyên (huyện Triệu Phong) có một ngôi miếu thờ thần là nữ. Người làng kể lại rằng, thuở trước có hai người đàn ông từ miền Bắc vào phương Nam để tìm đất lập nghiệp. Khi đi đến đầu làng Lệ Xuyên, họ tình cờ dừng chân nghỉ ngơi ở một quán nước nhỏ ven đường và hỏi mua ít quà bánh mang về biếu mẹ già ngoài quê nhà. Bà chủ quán cảm động trước tấm lòng hiếu thảo ấy, bèn mách bảo rằng vùng đất này vốn trù phú, thời tiết thuận hòa, rất thích hợp để định cư, canh tác lâu dài. Sau đó, hai ông quyết chí đưa gia đình và bà con vào đây khai hoang, mở đất sinh sống. Thế nhưng, khi quay lại thì quán nước nọ đã biến mất, không còn dấu tích nào, và người phụ nữ hôm ấy cũng chẳng thấy đâu. Lúc ấy, họ mới hiểu ra rằng có lẽ đó không phải là người thường, mà là một bà tiên hiện thân để chỉ lối, dẫn đường. Với lòng biết ơn sâu sắc, dân làng Lệ Xuyên đã lập nên một ngôi miếu nhỏ để tưởng nhớ người phụ nữ kỳ lạ ấy, và gọi là miếu Bà Quán Tiên Nương - biểu tượng của sự linh ứng, dẫn dắt và che chở từ cõi thiêng.
Đạo lý nhân văn
Quảng Trị là vùng đất trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, những lần sáp đổi, những cuộc giao tranh. Con người sống trên mảnh đất ấy luôn có ý thức coi trọng các bậc đi trước, những người đã ngã xuống cho đất đai xứ sở, những anh linh anh hùng liệt sĩ. Không có nơi đâu nhiều nghĩa trang liệt sĩ như nơi này, với 72 nghĩa trang, trong đó có 2 nghĩa trang quốc gia. Ngoài ra còn có những nghĩa trang không mộ như Thành Cổ Quảng Trị, sông Thạch Hãn. Và còn có một nghĩa trang mang đậm tình người khác là Nghĩa Trũng Đàn ở làng Thạch Hãn, được xây dựng năm ١٩٧٢ dưới thời vua Tự Đức, nơi chôn cất những phần xương cốt lạc loài do biến thiên lịch sử. Tất cả các nghĩa trang ở Quảng Trị đều được chăm sóc, nhang khói ấm cúng, thể hiện đạo lý nhân văn.

Chạp mả ở làng quê hằng năm là dịp để mọi người chăm sóc, tu bổ mồ mả tổ tiên - Ảnh: N.Q
Tưởng nhớ người đã khuất ngoài tín ngưỡng, còn có ý nghĩa giáo dục, nhắc nhở về sự tri ân. Từ việc biết ơn, con người ta sẽ sống tốt hơn, có trách nhiệm và biết yêu thương nhau hơn. Trẻ con đi học hầu như đều thuộc câu tục ngữ: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng. Câu tục ngữ này xuất phát từ trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt. Một tấm vải đỏ phủ che lấy khung hình trên bàn thờ ở các gia đình, lại đi vào trong thơ ca dân gian như một lời nhắc nhở về tình đồng bào.
Nhiều ngôi nhà cổ ở các làng quê thường treo bức hoành phi đề ba chữ “Hiếu vi tiên” với ý nhắc nhở con cháu về sự hiếu để. Trong nhiều đức tính thì hiếu để phải đặt lên đầu tiên. Chữ “hiếu” của người Việt còn được hiểu rộng hơn, không chỉ là sự chăm sóc phụng dưỡng ông bà cha mẹ khi còn sống, mà còn biết hương khói tưởng nhớ tổ tiên nhiều đời. Thơ khuyết danh có câu: Con người có tổ có tông / Như cây có cội như sông có nguồn.
Nhiều ngôi đình làng, nhà thờ dòng họ, nhà thờ phái… ở các làng quê hiện nay cũng khang trang, sáng đẹp hơn. Những nghi lễ cúng tế vẫn được bảo lưu, duy trì và tiếp nối. Lễ tảo mộ (chạp mả) hằng năm ngoài việc tu sửa lăng mộ tổ tiên còn là dịp để người khắp nơi trở về quê hương gặp gỡ, hội ngộ hàn huyên chuyện trò, thắt chặt tình cảm huyết thống.
Khi xây dựng nếp sống văn hóa mới thì những tục lệ thờ cúng ở làng quê càng được coi trọng bởi đó là nét đẹp truyền thống ngàn đời của dân tộc. Tục ngưỡng vọng tiền nhân đặc biệt hơn các loại tín ngưỡng khác ở chỗ không bị lai căng, biến tướng; không dễ sa vào mê tín. Người quê giữ gìn nét đẹp này tự nguyện, theo một suy nghĩ rằng "có thờ có thiêng, có kiêng có lành" - câu tục ngữ phản ánh quan niệm của người Việt về sự kính trọng đối với những điều linh thiêng và tuân thủ các nguyên tắc kiêng kỵ trong đời sống.
Ở các làng quê Quảng Trị, nơi có truyền thống lâu đời và nền văn hóa phong phú, các nghi lễ cúng bái, ngưỡng vọng tiền nhân không chỉ thể hiện lòng thành kính mà còn là một cách để gia đình, làng xóm giữ được sự an lành, hạnh phúc. Phong tục này được duy trì như một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người Quảng Trị, đồng thời có tính giáo dục cho các thế hệ sau về nếp sống nhân văn, lòng biết ơn, đạo lý làm người.