
Thuyền đánh cá ghé cù lao Bắc Phước bán cá tôm - Ảnh: Y.M.S
Phố thị xa dần theo con nước, tôi đưa tay với dòng nước mát lành thoảng hương vị mặn mòi của biển cả. Thường thì phải gần một giờ đồng hồ mới đi hết chặng đường từ đó về cù lao, qua những làng quê nép mình dưới bóng tre làng rì rào gió. Những bến sông lặng lẽ, với những chiếc ghe cần mẫn phăn lưới bắt cá tôm, hiện ra như trong tranh lụa. Dường như càng về gần cù lao, tôi càng cảm được rõ hơn vị mặn trong làn nước, như thể chính nỗi nhớ nhung của đại dương đang chảy ngược về nguồn.
Nhìn lui, bóng núi Voi Mẹp sừng sững trên nền trời phía tây, đỉnh núi phủ mây trắng bạc như đầu tóc của một người già từng trải. Có lẽ núi cao chẳng bao giờ quên được những con nước do mình chắt chiu đổ về sông này, để rồi chính sự thương nhớ ấy làm nên vị mặn mòi của con nước quê tôi.
Và rồi tôi trở về làng Dương thân thương của mình, nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi bằng tiếng gà trưa và tiếng sóng sông rì rào vỗ bờ. Bến đò xưa từng in dấu bao bước chân của bà, của mẹ, giờ đã được thay bằng một bến xe mini hiện đại, đưa đón người dân từ Lao Bảo đến Chợ Chùa. Cảnh vật đổi thay theo năm tháng, nhà cửa mọc lên san sát, đường làng tráng nhựa thẳng tắp. Thế nhưng, những con người nơi đây, những người nông dân chân lấm tay bùn, vẫn giữ nguyên vẹn sự chất phác, hiền lành và đậm tình nghĩa như thuở nào.
Có lẽ chính dòng sông hiền hòa chảy qua trước làng, bao đời vẫn một nhịp nước lặng lẽ, thơ mộng đã thấm vào máu thịt con người nơi đây, tạo nên một cốt cách trung hậu, thủy chung và đạo nghĩa. Điều ấy như được khắc sâu trong câu đối trước cổng tam quan nhà thờ họ Nguyễn làng Dương Xuân: Bách niên phúc trạch xuyên phương chí / Vạn cổ cương thường thạch bất ma. (Tạm dịch: Trăm năm phúc đức dòng họ xây nhà một hướng / Vạn đời đạo nghĩa như đá không trôi).
Lần theo dấu chân của các bậc tiền nhân, những người đã dày công khai phá, dựng xây, tôi như thấy rõ hơn hành trình lập họ, lập làng của dòng tộc mình. Họ Nguyễn làng Dương vốn phát tích từ làng Dương Xuân, một vùng quê cổ kính nằm trong lòng kinh đô Phú Xuân (Huế). Năm 1802, khi vua Gia Long thống nhất sơn hà, cho xây dựng kinh thành Huế nguy nga tráng lệ, một phần đất của làng Dương Xuân bị triều đình trưng dụng. Trước biến động lớn lao ấy, nhiều người trong họ Nguyễn buộc phải rời làng, mang theo cả ký ức, văn hóa và tinh thần của quê cha đất tổ đi khắp nơi: người xuôi về biển Thuận An, người ngược lên mạn Phú Lộc…
Trong số ấy có một người con trai, mang theo mái chèo và ước vọng tìm đất mới đã lần theo dòng nước mà ra phía Bắc. Trên hành trình xuôi theo sông nước đến Quảng Trị, trải qua ba đời lênh đênh giữa những bến bờ xa lạ, tạm trú nơi này, lưu lạc nơi kia. Nhưng rồi, như một cơ duyên định sẵn, dòng đời đưa đẩy ông đến với mảnh đất Cồn Bạc - một cù lao trù phú nằm giữa vùng Bắc Phước. Chính nơi đây, hậu duệ ông đã chọn làm chốn dừng chân, khai khẩn đất hoang, dựng lên những mái nhà đầu tiên, khai sinh làng Dương ngày nay.
Thời gian trôi qua, lớp lớp con cháu tiếp bước ông, bám đất, bám làng, xây dựng cuộc sống yên bình bên những hàng tre, lũy chuối. Ngày nay, cả làng là một họ - họ Nguyễn, cùng sống chan hòa bên hai làng bạn là Hà La và Duy Phiên, tạo thành một cộng đồng gắn bó keo sơn, vừa giữ được truyền thống, vừa mở lòng với hiện tại.
Ra đi đâu chỉ mang theo ký ức quê nhà, người con họ Nguyễn còn gói ghém trong hành trang mình cả những nghề gia truyền, thứ tài sản vô hình nhưng bền bỉ như lửa âm ỉ trong tro tàn. Đó là nghề đan sáo treo, hay còn gọi là mành tre, một thứ vật dụng dân dã mà thân thuộc trong mọi ngôi nhà quê thuở trước. Và còn đó nghề chài lưới sống cùng sông nước, đọc được dòng chảy của cá, của gió, của cả tháng năm. Chính nhờ mang theo hai nghề ấy, khi đặt chân lên vùng đất mới, lớp lớp con cháu họ Nguyễn đã không lạc lõng giữa miền hoang sơ. Họ cắm sào, dựng chòi, bủa lưới, đan mành mưu sinh bằng chính đôi bàn tay khéo léo đã được truyền lại qua bao thế hệ.
Cũng bởi quanh năm sống với tre, với lưới, tay không ngừng làm mà có một lời đùa nửa thật nửa chơi trong dân gian rằng: “Người làng Dương hai tay thì to quá cỡ, còn hai chân thì nhỏ đến lạ”. Nghe qua thì cười, nhưng ngẫm lại thì… cũng đâu sai! Truy về “nhân chủng” lẫn nghiệp nghề, người ta bảo: cái nghề đan lát, chài lưới quanh năm lấy tay làm chính, đan mành phải tỉ mỉ từng sợi, kéo lưới phải khỏe mới chống lại được sức nước, sức cá. Còn chân thì… có mấy khi đi đâu xa, chỉ quanh quẩn bên bến nước, sân nhà, nên thành ra… teo lại! Một cách lý giải dân dã mà thấm đượm tinh thần lao động, khiến ai nghe cũng phải bật cười mà gật gù công nhận.
Ông nội tôi, một người con của làng Dương cả đời gắn bó với hai nghề gia truyền ấy như định mệnh đã an bài từ thuở lọt lòng. Ông sống như một nhịp nối tự nhiên giữa cha ông đi trước và cháu con đời sau, lặng lẽ, cần mẫn như nhành tre bên bến nước. Cả đời ông chưa từng nghĩ sẽ rời khỏi bến sông, cũng chẳng buông được tay khỏi bó tre, khỏi tấm lưới giăng.

Cồn Đống - bến đò xưa trên sông Thạch Hãn - Ảnh: Y.M.S
Đêm đêm, ông chèo đò lặng lẽ rẽ sóng giữa mênh mang nước bạc, đem những chiếc lọp, chiếc nò thả xuống sông. Ban ngày, ông lại ngồi tựa lưng vào bức tường đất sau hè, tay thoăn thoắt chẻ tre, vót nan, đan rổ, đan tràng. Những âm thanh cộc cộc, xạc xạc của tre khô chạm vào nhau, hòa cùng tiếng gà trưa, tiếng gió lùa qua mái rạ, là âm nhạc của làng, của ký ức tuổi thơ tôi.
Những năm đói kéo dài, giặc càn quét khắp nơi, làng quê chìm trong khói lửa, đói rét, ông tôi vẫn không rời bỏ nghề. Sáu người con của ông, trong đó có cha tôi, đều được ông nuôi lớn bằng chính đôi tay chai sạn ấy. Cho đến một ngày, khi đôi tay ấy đang cầm chiếc mác, lưỡi mác sắc bén quen thuộc dùng để chẻ tre thì nó rơi xuống đất. Ông đã đi, nhẹ nhàng như một chiếc lá tre rụng xuống dòng sông trước làng. Người làng bảo, ông không chết, ông chỉ trở về với cội nguồn, về lại với sông nước đã ôm trọn cả cuộc đời ông.
Có những thân phận ở làng bình dị đến nao lòng. Như ông tôi, một đời chân chất, chỉ đôi lần đi xa lên Lao Bảo thăm con cháu rồi quanh năm cột mình sau lũy tre làng. Họ gắn bó với làng như một mặc định của cuộc sống này với hơi thở! Để rồi khi chết đi, những ký ức làng luôn hiển hiện bóng tiền nhân khi nhớ về xứ sở…
Ngày xưa, mỗi lần trở về làng, tôi chẳng mấy khi giữ giày dép trên chân. Cảm giác được cởi giày, đặt bàn chân trần lên con đường đê rì rào gió, xanh rờn cỏ dại, là một niềm vui giản dị mà không nơi nào có được. Lối mòn trâu đi, qua bao mùa nắng gió, in lỗ chỗ những vết hằn cũ kỹ. Cỏ nơi đó không chỉ xanh, mà còn thơm, cái hương ngai ngái mà chỉ những ai từng ngồi bứt cỏ chơi thuở nhỏ mới nhớ. Hương ấy, gió ấy, mang theo cái vị nội đồng trong lành, tinh khiết, như thể có thể gột rửa hết bụi bặm phố xá đang bám trong hồn.
Sáng sớm, cả con đường như được phủ một lớp màn mỏng, đó là những “nánh nè” mắc giữa các ngọn cỏ, đẫm sương đêm, ánh lên trong nắng đầu ngày như những chuỗi pha lê trong suốt. Đôi khi tôi dừng lại ngắm những giọt sương ấy, như thể chạm vào cũng sợ làm vỡ mất một mảnh kỷ niệm.
Trên những thân tre ven đường, tôi thường bắt gặp tên của ai đó được khắc lại từ thuở nào. Một cái tên con trai, một cái tên con gái, ở giữa là trái tim xiêu vẹo, hằn sâu vào thân tre già. Có thể giờ họ đã thành vợ chồng, sống đâu đó trong làng, cùng nhau cấy lúa, nuôi con. Cũng có thể họ đã xa nhau từ lâu, mỗi người một phương trời, để lại chuyện tình xưa dưới bóng tre làng chỉ còn là vệt ký ức mờ. Nhưng nhìn những vết khắc cũ ấy, tôi không khỏi bâng khuâng. Cảm xúc ấy mơ hồ, không thể gọi tên, chỉ biết nó khiến lòng mình se lại, như vừa đánh rơi một điều gì thân thuộc.
Có lẽ, làng quê luôn là nơi cất giữ những ký ức như thế, không phô trương, không phán xét, chỉ âm thầm lưu giữ. Để rồi mỗi lần ta nhớ về, ký ức ấy lại âm thầm nở hoa, kết trái trong lòng, không rực rỡ, nhưng ấm áp và rất thật.
Giờ đây, bạn bè tôi, những đứa từng cởi truồng tắm sông, từng thả diều trên đê đã rời làng từ lâu. Đứa vào Nam lập nghiệp, đứa lên phố làm ăn, mỗi người một phương, mang theo giấc mơ riêng, để lại sau lưng những ngày tháng cũ. Ông bà tôi cũng đã về với thiên cổ, chỉ còn lại mái nhà xưa rêu phong và những ký ức nằm im trong từng thớ gỗ, từng viên ngói.
Tôi trải chiếc chiếu cũ dưới mái hiên ngày ấy, nơi từng là chỗ tụ họp của cả gia đình mỗi chiều hè ngồi một mình nhìn ra dòng sông Thạch Hãn. Con nước vẫn lững lờ trôi như thuở nào, không vội vã mà cũng chẳng dừng lại. Giữa cái chấp chơi của dòng chảy, bóng dáng làng quê như hiện về, lấp ló sau rặng tre, sau mái ngói nghiêng nghiêng, sau tiếng gà gáy xa buổi chiều nhạt nắng.
Trong làn gió thoảng qua, có chút hương xoan thoang thoảng. Thứ hương mộc mạc, hơi ngai ngái nhưng khiến lòng người dịu lại, như một lời nhắc thầm của ký ức. Hương xoan gợi về những mùa xuân xưa, khi hoa rụng đầy sân, khi lũ trẻ chúng tôi gom từng cánh tím để chơi trò “bán chợ”.
Và rồi, như từ một góc ký ức xa xăm vọng lại, tôi nghe ai đó gọi tên chú Thích, người lái đò năm xưa trên cồn Đống. Giọng gọi nhẹ như gió, buồn như khói bếp chiều, mà sao nghe như thật. Chú Thích với mái chèo nghiêng bóng hoàng hôn, chiếc đò nhỏ lặng lẽ đưa người qua sông mà chẳng bao giờ để lại dấu vết trên nước. Có lẽ chú cũng đã đi xa, như bao người đã rời khỏi dòng Thạch Hãn này, để lại một vệt nhớ mênh mang trong lòng kẻ ở lại…
Cù lao Bắc Phước nhìn từ trên cao - Ảnh: Y.M.S