Tết này nữa là tròn hai mươi năm ba tôi rời cõi tạm. Nhìn quê hương ngập tràn sắc xuân lại nhớ thuở hoa niên với miên man bao hoài niệm.
Ngày đó, năm nào cũng vậy, cứ mỗi dịp Tết, sau khi thăm hỏi nội ngoại trọn vẹn, ra mùng, ba thường chở mẹ con tôi trên chiếc xe đạp Favorit của Tiệp Khắc (cũ) đi chơi Tết xa, ở hai nơi: Một là, qua Vĩnh Tú thăm người đồng nghiệp đã về hưu, giờ là nông dân chính hiệu, đêm ngày lăn lộn với đất đỏ, tiêu, chè và những hồ cá vuông vức bàn cờ nép mình bên triền cát trắng. Hai là, về miệt Cửa Tùng, Vĩnh Giang thăm mấy hộ ngư dân của một thời ba đã từng theo họ ra khơi vào lộng trong những chuyến thực tế cả tháng trời trên biển. Những tháng ngày lênh đênh trùng khơi ấy, theo lời ba kể thật gian khổ, hiểm nguy mà hào sảng, đáng để gọi họ - những ngư dân “khoác áo xanh Tư Mã”. Sau này tôi biết, trong số những ngư dân can trường ấy có anh hùng Lê Văn Ban, người thuyền trưởng với tài chỉ huy siêu việt dẫn những đoàn thuyền gỗ chở lương thực, vũ khí, với trăm chuyến đi về vượt sóng gió trùng khơi, vượt bom đạn và sự vây ráp của tàu chiến Mỹ để “tiếp máu” cho đảo Cồn Cỏ sống còn trong những năm tháng chiến tranh ác liệt đỉnh điểm trên tuyến lửa Vĩnh Linh. Nhưng thôi, hãy để câu chuyện biển khơi kỳ thú ấy lại trong một dịp khác. Bây giờ, hãy cùng gia đình nhỏ của tôi du xuân về miền làng trạng Huỳnh Công - Vĩnh Hoàng xưa.
“Chiếu trạng ngày Xuân” mỗi dịp Tết ở Vĩnh Tú thu hút nhiều người tìm đến xem - Ảnh: Trung Thành
Từ thị trấn, ngược gió mùa đông bắc, mưa phùn và rét buốt để đến làng quê Vĩnh Tú thuở đó, với xe đạp và đường đất đỏ trơn như bôi mỡ, dẫu chỉ tầm dăm bảy cây số thôi nhưng thực sự là một hành trình gian nan. Đường xa ngái, xe cọc cạch, có khi thủng xăm, bể lốp, đứt xích giữa đường. Cả nhà cứ vậy lóc cóc đi bộ. Ba vừa dắt xe vừa chỉ những làng quê, thôn xóm ven đường, những rú trâm bầu thâm u, đồi cây lúp xúp, bàu nước với sen, súng mùa tàn xác xơ, lũy tre ken dày kiên cường trong gió rét. Những địa danh ấy, thuở còn là một phóng viên chiến trường bám trụ trên tuyến lửa vốn đã quá thân quen, gắn bó, nên nghe ông kể rành rọt tựa như được sinh ra, lớn lên trên chính nơi chốn này.
Tết ở miền quê Vĩnh Tú những năm 90 đơn sơ, mộc mạc lắm. Mâm cơm tết thịnh soạn đón bạn hiền xa tới, ngoài đĩa thịt gà, con cá tràu nướng kho khoanh tròn, dưa xổi muối, còn có thêm đòn bánh tét, dưa kiệu, mứt gừng… tất cả đều là sản phẩm “nhà tự làm”. Đương nhiên không thể thiếu đặc sản quê trạng là ấm chè xanh “đứng đũa” được ủ nóng trong một vò rơm con cúi bện tròn. Vậy mà hai ông nhà báo già tâm giao cứ hàn huyên suốt buổi, vẻ mặt ngời lên sung sướng, mãn nguyện. Chú bạn ba cũng thuộc hàng quái kiệt. Quê nhà ở miệt đất đỏ trù phú tiêu chè, từ, tía xanh tốt quanh năm, mà lạ, vẫn không níu được bước chân con người phóng túng. Chú tìm đến đồi cát quạnh vắng hoang sơ này, một thân một mình lập nghiệp. Gia sản vẫn là những thứ cây con, nhưng khác một chút: luống dưa xanh mướt bò trên cát trắng, đàn gà vàng rộm trên đồi, ao cá tì tỏm tiếng trắm, chép quẫy đuôi. Nhớ câu “ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”, bốn trăm năm trước Trạng Trình đã “thú nhận” vậy, ứng với chuyện của chú cũng là nhiêu đó thôi.
Chòi tranh đơn sơ trơ trọi, trên cao nhìn xuống như tai nấm mọc giữa triền cát trắng điểm những gốc dương liễu già nua, uốn lượn bonsai. Đồi cát chứa căn nhà nằm giữa một bên là bàu Thủy Ứ mênh mông, một bên là bàu Trạng nhỏ xinh, tròn vo như chiếc dĩa. Bàu Trạng vốn dĩ là một phần của Thủy Ứ, bởi tháng năm vật đổi sao dời, cát bay nước chuyển, giờ đứt lìa và tách khỏi bàu mẹ để nép mình về hướng bắc, cái “dây rốn” là một con mương nhỏ nước trong veo, róc rách luồn dưới cát. Với cái thế đắc địa ấy, chú cười đầy tự hào: “Trại tranh nhà em, nhìn đơn sơ rứa mà có khác chi điện Thái Hòa trong Đại nội mô anh. Cũng tả Thanh Long - hữu Bạch Hổ, cũng tiền án là động cát cao ngất choãi chân hướng biển, hậu chẩm là dải rú cấm thâm u ngút ngàn tầm mắt trong kia…”. Đó là một phát kiến thú vị, uyên thâm của một trí thức nhưng nhuốm màu “trạng” Huỳnh Công. Bàu Thủy Ứ với cái màu nước bàng bạc, vây quanh bốn bề cây cối um tùm, hoang vắng và huyền bí như những giai thoại truyền kỳ hư hư thực thực mà dân gian truyền tụng. Trẻ nhỏ như tôi lúc đó, thú thực, nhìn thấy sợ và ngợp, hơn là thú vị.
Góp vui trong cuộc hàn huyên đón Tết mừng Xuân nơi chốn yên ả này thể nào cũng có thêm một vài người đàn ông trạc tuổi ba, vóc dáng săn chắc lực điền, trong đó có một người vận áo bà ba, đầu chít khăn, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Họ đến không chỉ góp vui với chén rượu, tách trà đón xuân thưởng Tết. Một nhóm các chú sẽ lặng lẽ kéo lưới “vét” hồ. Mặt nước phẳng lặng trên mấy ô vuông bàn cờ ngoài kia chợt rộn lên tiếng cá vùng vẫy, nước bắn tung tóe. Những chú trắm tinh khôn phóng mình vút qua triêng lưới để thoát thân, nhìn như mũi tên bay, rất kỳ thú. Còn người đàn ông mặc bà ba màu gụ ấy, sẽ có một phần việc riêng. Thể nào thì cuộc vui cũng sẽ xoay quanh ông lão lạ lùng này, khi chiếu rượu đã sum vầy. Ông chiêu ngụm chè xanh, xếp bằng chân, đằng hắng tiếng và cất giọng nói ồ ồ... Sau này, tôi mới biết đó là một trong những nghệ nhân kể chuyện trạng nổi tiếng đất Huỳnh Công, dạng “của hiếm” của làng.
Chuyện trạng qua lời kể của “bọ” nghe hay, vui và duyên lạ lùng - Ảnh: Trung Thành
Không khí Tết ở miền quê này cũng tựa như bao nơi, đầm ấm và đơn sơ; chỉ khác một điều: luôn có một món đặc sản mà không một nơi nào bắt chước được, đó là kể chuyện trạng. Phương ngữ của người vùng Vĩnh Tú rất nặng, lại rặt những tiếng địa phương mang âm hưởng thiệt lạ lùng. Những “mô, tê, chi, rứa, ây, a, hấy, há…” lên xuống bổng trầm, cứ như ma trận bày ra tràng giang đại hải. Đứa trẻ lên mười như tôi không tài nào nghe và hiểu hết nội dung cũng như ý nghĩa, thâm ý sâu xa gửi gắm trong những câu chuyện trạng, nhưng nhìn ba mẹ và người xung quanh cười bò lê bò càng, có người còn sặc cả nước, miệng cười mà mắt, mũi giàn giụa, nên cũng ôm bụng cười theo. Mà nghiệm cho cùng, chẳng có chi lạ lùng cao sang cả, toàn những chuyện về mấy thứ vốn dĩ đã quá thân quen trong cuộc sống lam lũ hằng ngày: con trâu, quả bí, dưa đỏ, ngọn rau, con cá, động cát, ruộng lúa, cái bàu Thủy Ứ mênh mông… Đương nhiên không thể thiếu là một ông “bọ” nông dân - nhân vật chính cũng là người dẫn chuyện - ngó bộ chân chất, thật thà, tưng tửng, ngây ngô nhưng ngẫm kỹ hóa ra cũng thiệt là tay đáo để. Những câu chuyện nó tự nhiên như một thứ cây trái có sẵn nơi miền quê kiểng, “bọ” ngồi đó, chỉ mỗi việc hái xuống, bày ra, hào phóng thết đãi xóm giềng, bạn hữu trong sự vô tư, hứng khởi hết lòng. Không lên gân, không sắp đặt, chẳng cao trào, ly kỳ hay rối rắm, đánh đố… nhưng qua lời “bọ” chuyện được thổi hồn, nghe hay, vui và duyên lạ duyên lùng.
Chiếu trạng ngày Xuân xa xôi đã hơn ba thập kỷ ấy, giờ vẫn đọng lại trong ký ức như mới hôm qua, ấn tượng như những bức tranh với gam màu sáng trưng và rực rỡ. Sau này, khi lớn lên và biết rõ hơn về kho tàng cả trăm câu chuyện thú vị ấy, trí nhớ tôi như “khớp nối” lại với miền ký ức xưa để thấy ngấm và tự cảm nhận hết men mê say lạ kỳ, độc đáo của nét văn hóa phi vật thể đặc sắc hiếm có này. Tiếc rằng, theo dòng chảy của thời gian và sự xô bồ của văn hóa hiện đại, ngoại nhập; chuyện trạng Huỳnh Công - Vĩnh Hoàng nổi tiếng một thời đã dần rơi vào trạng thái nhạt màu, phai lãng. Hơn chục năm trở lại đây, trong nỗ lực để duy trì và làm sống lại nét văn hóa độc đáo, chính quyền địa phương cùng các nghệ nhân, văn nghệ sĩ mọi miền đã nỗ lực bằng nhiều cách thức để làm sống lại đứa con tinh thần mà cha ông đã sáng tạo nên. Hàng trăm câu chuyện trạng được sưu tầm và phục dựng. Những nghệ nhân già cũng đã nỗ lực truyền nghề cho lớp con cháu hậu sinh, nuôi dưỡng niềm đam mê chuyện trạng; trong đó có cả những đứa trẻ lên tám lên mười đã bộc lộ năng khiếu kể chuyện rất duyên. Một trong những hoạt động lớn trong phong trào gây dựng lại nét văn hóa đặc sắc của quê hương chính là việc đều đặn tổ chức “Chiếu trạng ngày Xuân” mỗi dịp Tết theo hình thức sân khấu hóa, thu hút cả ngàn người muôn nơi náo nức đổ về. Đây là một cách làm hay, sáng tạo, khá hiệu quả. Và nguyên thủy của nó, tôi nghĩ xuất phát chính từ những chiếu trạng sơ khai mà giàu xúc cảm tôi may mắn từng chứng kiến của cái thuở hoa niên yêu dấu nơi đồi cát bên bàu Thủy Ứ năm nào.
Đường tranh bích họa chuyện trạng ở xã Vĩnh Tú - Ảnh: C.N
Tết đến xuân về, tôi vui náo nức cùng bao người đến với miền quê dấu yêu nặng sâu kỷ niệm này. Dẫu rằng, bao lần du xuân xem “Chiếu trạng ngày Xuân”, hòa mình trong không gian rộn rã tiếng cười vui, những sân khấu hoành tráng, những hoạt cảnh dàn dựng công phu, những đạo cụ được mô phỏng y tạc… mà sao tôi vẫn chưa thấy được hồn cốt của chất trạng thứ thiệt mà mình đã chứng kiến, cứ thấy như đang lơ lửng, vương vấn, phảng phất nơi nao. Hay bởi tôi đa mang đa cảm, xem chuyện trạng hôm nay mà lòng vẫn thấy mường tượng và nhớ nhung da diết cái không khí Tết của chiếu trạng ngày xuân xa xôi. Phải chăng nó là cái ba-rem đã mặc định sẵn trong đầu, nên thấy khắt khe, không sao thoát ra được mà mở lòng hào phóng đón nhận…
Chiếc Favorit của ba tôi vẫn còn đó, cũ kỹ và hoang phế theo màu thời gian. Lớp sơn màu cánh gián bong tróc hết cả, vài thứ sắt thép đã rụng rơi, nhưng nó luôn là bảo vật gia đình. Tôi vẫn nhớ như in tầm này của ba mươi lăm năm trước, có thằng cu ngồi vắt vẻo trên khung sắt chiếc xe đạp ấy, hai tay vọc chú cá trắm treo tòng teng trước ghi đông, mồm líu lo như con sáo sậu “chú Chức kể chuyện trạng vui quá, ba hầy?”. “Ừ, chú ấy là nghệ sĩ mà…”. “Hôm nào mời chú ra nhà kể chuyện tiếp, ba hí”. “Ừ…”.
Mùi tanh của cá, mùi thuốc lá của ba, mùi bùn từ những thửa ruộng mới cày trở quyện lại, thoảng trong gió rét buốt thịt da. Thằng cu cứ hít hà, hít hà không thôi…