T |
ôi và Vân đều là học sinh nhảy núi, vì thế khi gặp được nhau là mừng hơn cả khi ra nước ngoài gặp người Việt. Hai anh em tôi nhân một đợt huấn luyện cán bộ xã đội nên sống với nhau hơn một tháng trời. Vân to khoẻ, cánh tay lông lá không khác gì người Tây. Khuôn mặt điển trai, da trắng trông có nét nghệ sĩ.
Tôi biết Vân yêu cô L. làm y tá chiến trường nhưng cậu sợ bị kiểm điểm nên cứ vụng trộm đến thăm nhau. Tình cờ một hôm tôi lấy cuốn sổ chép thơ của Vân ra xem. Lật trong trang lót bìa bắt gặp một mẩu giấy kẻ hai chữ VL lồng chéo vào nhau như người ta thường vẽ mẫu thêu trên áo gối một thời, tôi bèn lấy ra cất vào một nơi. Mấy ngày sau cậu tìm không thấy liền truy hỏi. Mặt mày Vân tái nhợt, sợ người trong đơn vị lấy được làm ồn lên thì rắc rối to. Thời ấy yêu nhau còn cấm kỵ vì chiến tranh làm sao mà sinh con đẻ cái cho được. Ai mà nhỡ ra là lập tức bị kỷ luật và chuyển ra tuyến sau đi tăng gia sản xuất, nhục lắm! Thanh niên mà. Thương Vân, tôi trao lại cho cậu ta và bảo : Thế nhé! Dấu sao nổi mình, mà khéo nghe! Phải biết giới hạn thôi!. Tôi thấy khuôn mặt buồn của Vân u trầm lắng nhẹ trong cõi xa vời tuổi đôi mươi. Ngày chia tay lớp huấn luyện, trở lại chiến trường, tôi và Vân xốc ba lô về lại ban B Vĩnh Linh để nhận thêm đạn dược. Cô L. đi nhận thuốc về, không kịp tiễn đưa, cô chạy băng băng giữa đồi sim lúp xúp đuổi theo. L. trao cho Vân bộ quần áo cô vừa mới may xong còn thơm mùi vải. Hai người nói với nhau chỉ trong vài phút, tôi không nghe rõ. Một tình yêu thầm lặng mơ màng đẹp như giấc mơ huyền ảo lung linh không ăn nhập gì với thời chinh chiến.
Vào chiến trường,Vân chiến đấu ở vùng Cam Mỹ, Cam Lộ, còn tôi chiến đấu trên hàng rào điện tử Dốc Miếu, Cồn Tiên. Hai chúng tôi theo nhau bằng những lá thư qua đường giao liên thông nối hàng tuần hàng tháng.
Dịp ấy, để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công nổi dậy xuân sáu tám, anh em chúng tôi được ra Vĩnh Linh để học tập,Vân gặp tôi bên bến sông Bến Hải. Hai đứa mừng vui ôm chầm lấy nhau như xa lâu ngày. Sống, chiến đấu ở chiến trường mỗi ngày đi qua sao mà dài lê thê. Tôi mang chai rượu Đi-ta-ki-na, loại rựợu thuốc ngọt như mật, cất dấu lâu nay ra đãi bạn. Vân mở ba lô lôi ra gói kẹo Hải Hà, quà tết ai đó cho Vân, hai đứa liên hoan bên bãi cỏ hoang còn khét mùi đất cháy.Có lẽ thứ mùi này chỉ có ở chiến trường mới ngửi thấy. Nó hăng hắc, lờm lợm hoang dã, dễ rợn người.
Vân kể cho tôi những ngày ở Cam Mỹ, sáng xách súng đi chống càn, tối lò dò vào cơ sở vận động quần chúng. Có lần Vân dẫn một đơn vị chủ lực vượt rừng băng qua Cù Đinh ra Bãi Hà. Một chuyến đi huyền thoại trong đời lính chiến. Vân cùng năm anh em đi từ tinh mơ đến quá trưa mới dừng lại ăn cơm trong căn lán của một binh trạm Trường Sơn. Nhai hết mấy nắm cơm vắt, mấy anh em căng võng nằm nghỉ. Mỏi mệt, anh em thiếp đi, không hay cái chết đang cận kề gang tấc. Một đàn voi đi ngang qua lán. Ông đầu đàn tạt vào. Sáu anh em nằm chết lặng trên võng của mình, mắt nhắm nghiền lại. Ông voi đưa cái vòi chua lét, rà qua mặt mấy chiến sĩ của ta. Trời ơi! Sao hôm nay ông hiền lành quá! Với cái vòi như con trăn khổng lồ ấy chỉ cần ông cuốn vào rồi quật xuống thì thây thể lính ta không biết còn ra hình thù gì nữa. Vận may hiếm thấy, nhưng đã gặp thì chỉ biết ơn trời đất mà thôi. Ông voi sau khi đưa vòi quét qua mặt các chiến sĩ, ông nhìn thấy mấy buồng chuối rừng lính ta vừa kiếm được để tựa vào gốc tre cột lán, thế là ông cuỗm đi không để lại một buồng nào. Lính ta mở mắt ra nằm bất động một hồi lâu mới định tỉnh. Sáu anh em vùng dậy cuốn võng lấm léc ra đi bàng hoàng như qua ác mộng.
Thật là chuyện hi hữu, nghe khó tin nhưng đó là chuyện thật mà Vân kể cho tôi nghe.
Nhai kẹo, uống rượu hai thứ ấy nó kỵ nhau, thế mà hai đứa cứ tì tì cho bằng hết, có ngờ đâu vừa dốc hết đáy chai cũng là lúc rượu ngấm đến đầu ngón chân ngón tay. Trời ơi! Tôi nhìn lên ngọn tre thấy trời mây quay cuồng vần vũ tưởng chừng như mình đang nằm trên con tàu giữa đại dương gặp cơn bão tố.
Hai anh em chúng tôi không tài nào đi được bèn trườn xuống bờ cỏ bên sông nằm ngủ li bì từ chiều tới sáng hôm sau vẫn chưa tỉnh rượu.
Trận tổng tiến công nổi dậy xuân Mậu thân ta thắng lớn nhưng sau đó địch phản kích, ta rút lui. Điên cuồng vì thất bại, địch dồn sức đánh phá ác liệt hậu phương của ta. Đường tiếp tế bị ngăn chặn, bộ đội gặp vô cùng khó khăn. Đói! Đói không thể tả hết. Lương thực cạn kiệt, bộ đội ta chỉ nhờ vào rừng để sống, kiếm cái ăn, bất cứ thứ gì có thể ăn được. Tôi và Vân sau khi tập huấn xong là ba lô trở lại chiến trường. Đi qua Bãi Hà, cây rừng bị B52 chém đổ ngổn ngang, khét lẹt mùi khói bom. Một vài binh trạm bỏ trống, xiêu đổ,vương vãi những vỏ đạn 130 ly vàng choé. Đường về chiều, rừng u trầm hoang tịch, hai anh em lần theo lối mòn có đường dây điện thoại, tìm đến hậu cứ của một đơn vị chủ lực. Đói đến vã mồ hôi, mắt xám xịt nhưng mừng run lên khi bắt gặp mấy anh bộ đội đang mổ thịt thú rừng bên bờ con suối.Thế là thượng đế vẫn còn thương chúng tôi. Gặp bộ đội chủ lực là không còn lo gì nữa. Trên tấm sạp tre, hai anh lính trẻ đang giết mổ, cạo lông mấy con thú mới bắn được. Trời ôi! Hai đứa tôi nhìn không được mắt. Đó là ba chú khỉ đột trắng hếu nằm như ba đứa trẻ con. Hai bàn tay,hai vành tai bé xí, bắp thịt đôi chân tròn lỏn. Biết là thú rừng nhưng sao thấy tội nghiệp. Ba chú khỉ bị mổ bụng nằm lép bẹp bên nhau như ba đứa trẻ sơ sinh say ngủ. Thầm nghĩ, thì cũng phải thế thôi! Nếu không, chả nhẽ chịu chết đói sao. Chiều ấy, hai đứa tôi ăn cơm với bộ đội. Cơm nhảo nhoét và chua hơn cả hèm rượu, đó là thứ cơm nấu bằng gạo được chôn lâu ngày mới đào lên, thức ăn là thịt khỉ kho mazi. Tôi không dám nói gì nhưng bưng chén lên là cổ họng lờm lợm, phải cố lắm, nhắm mắt mà nuốt.
Đời lính thời chiến hào hùng và bi thương pha lẫn cái hoang dã nảo nùng chắc không một lần sống lại nhưng nó mãi đóng dấu vào cả cuộc đời những người lính Trường Sơn.
Sáng hôm sau trở về đơn vị, hai anh em lần theo đường rừng đầy gai dợ chằng chịt. Đi tới một hốc đá dựng đứng, một cảnh tượng hãi hùng, bi thương chưa từng thấy trên trái đất này. Một bộ xương bộ đội hy sinh tự lúc nào không hay, người lính đứng tựa vào hốc đá, thịt rã hết. Chỗ xương trụ ngang hông vẫn còn đeo chiếc thắt lưng gắn cây dao găm và trái lựu đạn chày rĩ rét.
Bộ xương gần như nguyên vẹn. Đất dưới bàn chân đùn lên một mớ tóc đen nhánh. Không biết vì sao người lính hy sinh không để lại dấu vết gì. Có phải do sốt rét chăng?!.Cũng có thể vì lạc đơn vị, đói kiệt sức mà chết.
Vân và tôi không biết cách gì để khâm liệm cho đồng chí của mình. Hai đứa bèn khiêng những tảng đá xếp lại, thay cho áo quan rồi gỡ từng phần xương cốt gói lại trong một tấm khăn dù nguỵ trang, đặt vào hòm đá. Dùng đá đậy áo quan lại, tôi và Vân không biết tìm đâu ra hương để đốt cho đồng đội, bèn nghĩ ra một cách. Nhặt lá khô gom lại thành đống để đốt lên thay hương và cũng cho ấm áp hương hồn đồng chí. Mấy ngày trước đó trời mưa nên lá ẩm mốc sợ không cháy được, nhưng kỳ lạ thay, khi hai chúng tôi vừa quẹt lửa châm vào đống lá thì lập tức lửa bùng cháy rừng rực. Lửa lan nhanh qua hàng cây bên hốc núi kề sát nơi người lính tựa lưng, rần rật cháy nổ lép bép. Hiện tượng này tôi đã có lần nhìn thấy nhưng đó là hương nên người ta gọi là toạ hương. Một dấu hiệu báo rằng hương hồn người chết đã về chứng kiến. Vậy thì ở đây không phải hương mà là lá, vậy hương hồn đồng chí có về không? Tôi và Vân chấp tay vái lạy hương hồn đồng đội rồi quay về.
Dừng lại ở ngả rẽ đường vào Cam Lộ, đường về Gio Linh, tôi và Vân chia tay nhau, hẹn sẽ gặp lại nhau sau mùa chiến dịch.
Có ngờ đâu, đó cũng là lần chia tay cuối cùng. Tôi trở về đơn vị chiến đấu chỉ hơn một tháng thì được tin Vân đã hy sinh anh dũng trong một trận đánh phản phục kích.
Đêm ấy tôi nhịn ăn, ra bờ suối ngồi một mình và khóc.Thực ra tôi không khóc mà chỉ có những giọt nước mắt rịn ra bên khoé mắt. Tôi ghìm môi lại vì thế nên hình như nước mắt tôi đậm đặc. Vân ơi! Tao cũng biết rằng cuộc chiến khốc liệt này có ngày rồi chúng ta cũng phải có hy sinh. Mày hay tao? Bây giờ thì mày rồi! Đời sao ngắn thế Vân ơi!
Đ.T