Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 14/03/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Chảy đi sông Sa...

 Trên mặt đất vốn bằng phẳng, sông Sa Lung hình thành khi nào chẳng ai biết, có thể khi có “ông đếm cát, ông tát bể, ông kể sao, ông đào sông, ông trồng cây, ông xây rú, ông trụ trời” từ câu chuyện thần thoại nào đó mà xuất hiện dòng sông. Sông đâu biết mình duyên nợ với đất, với người; sông cũng không biết mình đẹp đến nỗi lẽ ra con người phải chiều chuộng. Sông cứ chảy vô tư, khi hiền hòa, có khi gào thét. Sông tạc vào lòng đất, sông đi vào lòng người, vào thi ca… Ai nợ sông và sông nợ ai chỉ có tạo hóa mới biết được… Cũng như người, sông khi buồn, khi vui.

Phải chăng do dòng sông mang nét đẹp của đất trời hòa quyện mà có truyền thuyết kể rằng: “Thuở hồng hoang, khi đất trời vừa mới hình thành, có Long mẫu ở Đông Hải bay về đại ngàn tìm nơi sinh nở. Ngang qua đất này thì chuyển dạ, nên “sa” xuống tìm chỗ…” câu chuyện huyền thoại về dòng Sa Lung là thế. Dân gian giải thích về cái tên “Sa Long” tức là “rồng sa”, do sự biến thể qua thời gian mà bây giờ gọi chệch thành “Sa Lung”. Có được vẻ đẹp ở hạ nguồn không đơn giản chỉ từ câu chuyện thần thoại, mà thực tế sông được kiến tạo tỉ mỉ bởi những hạt sương, giọt mưa của trời; từ các mạch nước ở tít trên sườn đông bắc đỉnh Voi Mẹp, hay tận sườn đông của đỉnh Sa Mù của huyện Hướng Hóa, rồi luồn lách qua vách đá, thác ghềnh… mới hình thành được một kỳ quan - còn có tên khác là Rào Quang. Riêng tôi trìu mến gọi là Dòng Sa.

Sông Sa Lung không dài, chừng 60 km nhưng cũng đủ dáng hình rồng mẹ uốn lượn mềm mại qua vùng rừng núi rồi xuôi về vùng đồng lúa tốt tươi - Ảnh: Võ Minh Hoàn

Sông Sa Lung không dài, chừng 60 km nhưng cũng đủ dáng hình rồng mẹ uốn lượn mềm mại qua vùng rừng núi rồi xuôi về vùng đồng lúa tốt tươi - Ảnh: Võ Minh Hoàn

Dòng Sa không thay đổi sau mịt mùng cuồng phong bão lũ, mà cũng chẳng phai đi bởi thời gian khi đã gieo vào ký ức con người. 

Chiều hè năm 1989, trong lần tôi theo bố xuôi bè củi từ Bến Trạng về phía trên Cầu Tàu. Nước ròng xuống, lòng sông hẹp lại. Một tảng đá ngầm trồi lên xé toang bè củi. Giằng đứt, từng bó củi tách ra lừ đừ nổi khắp mặt nước. Hai bố con chới với cứu bè đến kiệt sức. Từ trong mờ ảo có chàng trai xuất hiện trên chiếc xuồng tre, rõ dần dưới bóng hoàng hôn. Động tác lao mình nghiêng nghiêng như biểu diễn, để lại trên mặt sông xoáy nước gọn ghẽ với tiếng “phụp” sủi bọt mất tăm, chỉ mấy giây, anh như con rái cá trồi lên đón đầu dòng trôi, sải cánh tay rắn rỏi thu về từng bó củi lái vào bờ.

Sau đó tôi nghe kể rằng, ở làng Sa Nam có cậu bé sinh ra trước ngày dứt tiếng súng, lên ba đã biết bơi, lên năm tuổi thì bơi vượt Dòng Sa. Từ thuở thiếu niên, cậu bầu bạn với sông: lúc bơi lội đùa nghịch, lúc giăng lưới thả câu, khi thì nổ mìn đánh cá; đầu mùa hạ thì hái măng, đến mùa lũ thì vớt củi… Cậu với sông trở thành bầu bạn nương tựa vào nhau. Nhắc đến cậu bé đó là gợi nhớ dòng Sa Lung lúc ào ạt, lúc cồn cào, da diết. Cậu như được ông trời phái xuống tạc thêm phần kỳ bí, thơ mộng, làm cho sông không còn chỉ là dòng chảy vô tri. Thế rồi cậu bỏ lại sông, như biến mất khỏi bức tranh mà hình ảnh của cậu là linh hồn.

Ngày xưa, nhiều người dân Quảng Trị tận dụng thủy triều lên xuống ở các dòng sông bắt nguồn từ đỉnh Trường Sơn để vận chuyển củi về xuôi. Ba tôi và tôi cũng thế. Nhớ đến cảnh chiều chạng vạng mùa khô những năm cuối 1980, theo dòng Sa Lung lên đến trên Bến Trạng, qua một ngôi làng âm u bóng tre; bóng cây bần, cây sú cũng rũ xuống chờ đêm. Lạ thay, qua khúc sông này là gặp anh thanh niên trên con thuyền nhỏ, vẻ mặt chất phác, hồn hậu, cứ lững lờ trôi. Cái hình ảnh đó lặp đi lặp lại, đến mức có lần vắng thuyền và người ấy, mặt sông như trơ trọi, vô cảm; không gian như thiếu đi một chi tiết để tạo nên điểm nhấn của bức tranh non nước hữu tình. Khi sông lách vào núi cao thì hẹp dần, nhánh cây đôi bờ vươn ra khép tán, bầu trời trên đầu như nhỏ lại. Những cây mây to dài như con rắn vươn từ bờ này qua bờ khác... Tôi cùng ba sục vào rừng tìm những lùm dẻ thân thẳng, những thân củi ran sần sùi, củi lèng nghẹng loang lổ màu đang tách vỏ; những cây dâu cố ngoi lên thẳng đứng, treo từng chùm quả chín, rụng tím vạt lá khô... Chặt hạ xong, chuồi theo độ dốc xuống khe, từ khe lỉa ra đến suối, từ suối kéo ra đến sông… kết thành bè chờ thủy triều lên khỏi mấy rạn đá mới thả xuôi về. Ba tôi lái rất tài, có kinh nghiệm về luồng lạch và con nước, phải chèo nhanh cho kịp nước ròng. Đầu nguồn có những khúc sông rộng như hồ chứa, rồi tới nơi eo hẹp lại như một con suối, có đoạn gục xuống như bị bẻ gãy. Khi bè củi từ chỗ rộng tới chỗ hẹp là mỗi lần lo lắng, sợ va phải đá phá bè là rất khổ. Tôi phụ chèo, có khi gặp đá ngầm phải nhảy xuống lái tránh. Vất vả thế mà tôi lại thích, nhất là các đêm trăng, có khi tỏ như ban ngày, trăng càng tròn thủy triều càng cao, bè trôi đi như chơi vơi trên ngọn cây... Rồi bắt đầu qua khỏi Cầu Tàu, đến khúc sông mà tôi cho là điểm nhấn của cả dòng sông. Có mệt đến mấy, có buồn ngủ đến mấy thì đến khúc này đầu óc tôi tỉnh hẳn. Có khi cảm giác như đang vãn cảnh chứ không phải chìm nổi nhọc nhằn. Tôi yên tâm nằm ngửa mặt ngắm trăng cho bè tự trôi. Nó êm đềm trôi qua một ngôi làng như tựa hẳn vào lũy tre sát bờ, có những ngôi nhà tranh yên ắng, giữa những vườn cam, nhoi lên vài lùm mít… trầm mặc. Và hình ảnh con thuyền nhỏ với cái bóng chơi vơi của anh thanh niên lại xuất hiện… đang trôi qua làng Sa Nam của anh!

Làng Sa Nam không phải ngẫu nhiên mà thành sự chú ý, được tôi đặt vào một bối cảnh. Mà vì khi từ nguồn, sông chảy qua khỏi cái Cầu Tàu của tuyến đường sắt nằm vắt qua vùng trung du, nơi Dòng Sa có thể duỗi mình nghỉ ngơi sau lộ trình hiểm trở. Hiền hòa ở đó, thanh bình cũng xuất hiện ở đó và cơ hội cho sự tĩnh lặng của người và sông cũng bắt đầu. Nhưng cũng chính ở khúc sông này lại là nơi xuất hiện cảnh sinh hoạt rất độc đáo của con người.

Sông đã trải bày cho tôi về hình ảnh váng chiều với con thuyền lặng lẽ: Trước khi có tiếng nổ, tôi cảm nhận mặt sông như cái ao thu trong veo vắng lặng, nó nao nao buồn tựa bài thơ cảm tác về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Có lần gần tới khúc sông êm đềm đó, tôi nghe tiếng mìn nổ, vì nổ dưới mặt nước nên âm thanh chỉ thoát ra như tiếng cái loa bass khổng lồ. Đến nơi, trước mắt tôi là cảnh sôi động khác với ngày thường: Dưới sông, lại là anh thanh niên cùng chiếc thuyền tre lượn lờ quần thảo vớt cá, nhiều trai làng ngụp lặn. Những chú cá bị sức công phá của quả mìn tiếp tục trồi lên giãy giụa. Con chết thì ngửa bụng trắng hếu, con lừ đừ thì vẫy cái đuôi yếu ớt trườn đi tuyệt vọng. Còn trên bờ, người già, con gái và trẻ nhỏ í ới chỉ trỏ cho mấy trai làng dưới sông biết chỗ nào có cá nổi… Cá nhiều vô kể, rất nhiều cá đối, vì chúng đi thành đàn; có con trắm cỏ gần cả chục ký cũng được vớt lên… dưới sông như vũ hội. Hóa ra chiếc thuyền tre mỏng manh và con người điềm đạm đó lại có bản lĩnh biến hóa khôn lường. Anh hiểu về đặc tính của khúc sông này, anh biết mọi hoạt động của từng loài cá đi nơi nào trong luồng lạch, thời gian nào trong ngày ở Dòng Sa.

Thiên nhiên luôn tạo ra nguồn năng lượng cho con người. Mọi sinh hoạt liên quan đến Dòng Sa, nhất là trên khúc sông gần Cầu Tàu này đều nói lên nỗi đa đoan của nó. Khi cần đẹp thì sông hiền hòa uốn lượn, sông dát ánh vàng của hoàng hôn lên bề mặt nhấp nháy làm duyên. Khi cần mạnh mẽ thì sông như một con mãng xà, đầu trườn xuống biển, đuôi còn gác lên dãy Trường Sơn. Khi cần hung hãn thì sông cuồn cuộn lũ dữ, ánh mắt đục ngầu tức giận cuốn phăng những gì có thể. Kể cả khi cần nguồn thức ăn sông cũng vận chuyển trong lòng cơ man nào là cá, tôm và nhiều loài thủy sinh khác… Đó là duyên nợ của sông với người.

*

Gần đây tôi tìm về khi nghe Dòng Sa than thở, hữu duyên gặp cụ Tường - người sinh ra ở làng Sa Nam này, bây giờ đã trên 90 tuổi. Không ngờ Cụ có mặt bên cạnh con sông Sa Lung gần một thế kỷ - người mà tôi có thể đặt sự tò mò về ngược thời gian. Tổ tông của cụ trước đó có đến 18 đời lập làng tại đây, có thể từ khi cậu ruột của bà Vương phi họ Lê là Lê Đại Lang từ quê cũ ở tổng Sa Lung, thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định di cư vào, đem theo tên gốc để đặt tên làng: Sa Lung.

Cụ quay mặt ra sông, nơi có con thuyền đang bơi ngược lên phía Cầu Tàu, rủng rải nói: “Ông thường ngồi đây, quen rồi”. Cụ vừa nói vừa chỉ vào bụi tre mòn nhẵn: “Ngó ri thôi, chơ hắn nhiều tuổi hơn ông đó, làng này nhờ sông với dãy tre mà mùa hè mới mát như ri, mùa mưa bão thì chắn gió…”. Rồi Cụ ngước lên phía đầu nguồn: “Nhưng trước đây sông không như chừ, hồi đó nước mặn lên quá Cầu Tàu, nước trong xanh, không phải xanh như ri…”. Tôi nghe được tiếng thở dài như ngao ngán và cảm nhận được cái mất mát mà Cụ nói.

Cái màu xanh bây giờ đờ đẫn như sánh lại với màu váng của rêu hay là một dung dịch gì khác, chứ không phải cái màu xanh lóng lánh của lá rong hắt lên từ làn nước trong vắt với lững lờ đàn nuốt ve vẩy. Hình như bây giờ có thêm một thứ mùi mà tôi không dám dùng từ ngữ để gán vào con sông. Tôi muốn mùi thanh tao của hương hoa dẻ, hoa đùng đình, hoa bần, hoa sú… ướp bờ sông xưa ấy, như còn bám vào khứu giác. Nếu có lẫn vào thì ngoài mùi của lá rong xanh hay là mùi của củi mục trên nguồn đổ về, chứ không phải cái mùi bốc lên là phải bịt mũi tránh xa. Tôi hiểu, Dòng Sa không chấp nhận cái hình dạng xuống cấp của mình, vì nó làm xấu đi vốn hiện thân là một con sông kiêu sa, mĩ miều. Sông đang bị thương, một vết thương do con người gây ra, một vết thương phá vỡ, cắt đứt cái long mạch có ngàn đời. Thời chiến tranh, có khi bị bom xé toang, sông cũng đã đau đớn gồng lên ôm lấy sóng run rẩy, nhưng rồi nước ùa tới vá lại vết thương… sông lại trong xanh yên bình.

Sông Sa Lung ngày nước vẫn còn một màu xanh biếc - Ảnh: Đoàn Duy Long

Sông Sa Lung ngày nước vẫn còn một màu xanh biếc - Ảnh: Đoàn Duy Long

Bây giờ, dưới con đập cắt ngang, dòng Sa Lung vẫn uốn cong uyển chuyển, nước mềm mại chảy. Nhưng, như người nghệ sĩ múa khi sức tàn lực kiệt, ta vẫn nhận ra những đường nét quyến rũ ngày nào… Chẳng lẽ sông cũng có phận như người.

*

Bây giờ vẫn còn cái Cầu Tàu có thành sắt cao đổ bóng xuống Dòng Sa khi hoàng hôn chao đảo một màu đỏ ối. Lũy tre làng soi bóng nửa dòng sông một vệt dài xanh thẫm, còn nửa bên kia sóng sánh chớp lóa những tia nắng cuối cùng rồi chìm vào bóng tối. Trăng cuối tháng mùa hạ treo lơ lửng đầu ngọn tre, một chỗ khuyết tròn đen sâu thẳm cùng nền trời. Mảnh trăng lưỡi liềm chơi vơi giữa một biển sao lấp lánh. Dải Ngân Hà cũng như Dòng Sa, cạn kiệt phơi lên những gợn trắng đục hình chú vịt bơi lạc lõng giữa dòng… Nằm trên bè trôi, tôi thiêm thiếp… trong cơn mơ, con thuyền và bóng người vẫn lặng lẽ… có cái gói tròn tròn bằng quả cam với cái ngòi cháy chậm lòi ra ngắn ngủn… Chiếc thuyền chòng chành bơi về phía đàn cá, người trên thuyền ngậm điếu thuốc, thỉnh thoảng rít một hơi cháy lập lòe cùng tia nắng cuối cùng. Châm ngòi, lửa và khói xì ra cho đến khi gói thuốc nổ bắt đầu rung lên trên tay mới vung ném. Khi cột nước từ từ hạ xuống, khi những hốc tre lặng đi tiếng oàm oạp của sóng nước dội vào, khi tiếng lào xào của mọi người đông dần, thì từng mảnh của chiếc thuyền tre đã nổi đầy như xác pháo… tôi giật mình tỉnh giấc gọi: Sông ơi!

 

ĐOÀN DUY LONG
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 350

Mới nhất

Thương mùa cải ra hoa

09/03/2025 lúc 23:21

Không biết vì lẽ gì, tôi luôn cảm thấy mình có một mối thân tình không cách nào tả được với cỏ cây hoang dại.

“Quảng Trị mình cất cánh vút bay…”

12/02/2025 lúc 09:30

Ba mươi lăm năm trước, những ngày tháng 7 năm 1989, Quảng Trị tái lập tỉnh sau

Chiếc bọc nhung

6 Giờ trước

Đốp! Con heo đất vỡ toang, mớ tiền nằm xen lẫn những mảnh vỡ, Khiêm nhanh tay mở mấy tờ giấy bạc bung ra cho thẳng thớm. Những tờ giấy bạc nhăn nhúm, phai màu vì nhuốm mồ hôi và nằm xộc xệch trong cái túi quần khi Khiêm nhét vội.

Ngọn lửa trên đỉnh núi

6 Giờ trước

Tiếng khèn, tiếng chiêng, tiếng nhảy múa của trai gái tại Cha đôi Tamay - một lễ hội nông nghiệp quan trọng nhất trong năm của người Bru - Vân Kiều mừng mùa màng bội thu, mang lại sự ấm no cho bà con dân bản đã dứt từ lâu, niềm vui vẫn lâng lâng, xao xuyến trong lòng khiến Trưởng bản Hồ Suối không sao ngủ được.

Công an tỉnh Quảng Trị tổng kết công tác báo chí, tuyên truyền năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025

12/03/2025 lúc 12:23

Ngày 6/3/2025, Công an tỉnh Quảng Trị tổ chức Hội nghị tổng kết công tác báo chí, tuyên truyền về an ninh trật tự (ANTT) năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025. Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo Công an tỉnh, đại diện Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương cùng cán bộ, chiến sĩ làm công tác thông tin, tuyên truyền.

Xuân ấm nghĩa tình

09/03/2025 lúc 15:31

Nhân dịp Tết Nguyên đán 2025, Hội Phụ nữ - Đoàn Thanh niên Phòng Tham mưu Công an tỉnh Quảng Trị đã đến thăm, chúc Tết Mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Liền tại xã Trung Giang, huyện Gio Linh. Trong không khí ấm áp những ngày đầu xuân, các cán bộ, chiến sĩ đã ân cần thăm hỏi sức khỏe, động viên tinh thần và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc trước những đóng góp to lớn của Mẹ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc...

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

15/03

25° - 27°

Mưa

16/03

24° - 26°

Mưa

17/03

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground