Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 21/06/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Mối quan hệ giữa phê bình trẻ và sáng tác trẻ hiện nay

Qua thực tiễn sáng tạo thơ ca và cả viết phê bình văn học, trong khoảng thời gian gần 5 năm, từ Hội nghị những người viết văn trẻ lần VIII đến Hội nghị lần thứ IX (2011 – 2016), tôi cảm nhận rằng giữa phê bình trẻ và sáng tác trẻ ngày nay vẫn còn một khoảng trống chưa được lấp đầy. Có thực tế đáng suy ngẫm rằng, nhà văn/thơ trẻ ngày nay (gọi chung là nhà văn trẻ) thường được phát hiện, cổ vũ, đề cao bởi những… nhà phê bình, nhà văn/thơ lớn tuổi. Một loạt các nhà văn trẻ trong nhiều năm qua đã được những cây bút thành danh như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Huy Thiệp, Hữu Thỉnh, Hoàng Ngọc Hiến, Du Tử Lê… mà đặc biệt là Phạm Xuân Nguyên phát hiện, bồi dưỡng và giới thiệu với công chúng. Trong khi đó, những nhà phê bình trẻ lại có xu hướng rút lui vào tháp ngà của học thuật. Họ vẫn rất xông xáo, nhạy cảm, năng động với cái mới, nhưng lại hướng nghiên cứu của mình vào văn học phương Tây, những tác gia kinh điển, những vấn đề lí thuyết thuần túy hoặc các hiện tượng văn học đã ổn định về mặt giá trị. Xin đưa ra biên mục ngắn những cuốn sách nghiên cứu văn học đáng chú ý gần đây của lực lượng phê bình trẻ nhằm hiểu rõ hơn về xu thế lựa chọn đề tài của họ.

Tiêu biểu trong những công trình đã xuất bản chính thống thành sách gần đây của các nhà phê bình trẻ (hoặc bị xem là “vẫn còn” trẻ) gồm có: Đoàn Minh Tâm với Văn học trẻ như tôi hình dung, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2012. Phùng Gia Thế với Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam (giai đoạn 1986 - 2012), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2016 và Văn học Việt Nam sau 1986 phê bình và đối thoại, Nxb Văn học, Hà Nội, 2016. Nguyễn Đức Toàn với Văn xuôi đương đại hiện tượng và bút pháp, Nxb Văn học, Hà Nội, 2016. Đoàn Ánh Dương với Không gian văn học đương đại (phê bình vấn đề và hiện tượng văn học), Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2014. Nguyễn Mạnh Tiến với Những đỉnh núi du ca - một lối tìm về cá tính H’Mông, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2014. Nguyễn Thanh Tâm với Loại hình Thơ mới Việt Nam (1932-1945), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2105. Lê Thị Dương với Chuyển thể văn học điện ảnh (nghiên cứu liên văn bản), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016. Hoàng Thụy Anh với Tiếng vọng đa thanh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2016. Hoàng Cẩm Giang với Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI cấu trúc và khuynh hướng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2015. Phạm Xuân Thạch với Sự khởi sinh của tính hiện đại - trần thuật Việt Nam trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014. Phan Tuấn Anh với Gabriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại, Nxb Văn học, Hà Nội, 2015…

Như vậy, trong khối lượng sách khá phong nhiêu, ta chỉ thấy thực sự có một công trình trực tiếp lấy đối tượng nghiên cứu là văn học trẻ của Đoàn Minh Tâm. Một số công trình khác, như của Hoàng Thụy Anh hay Phùng Gia Thế có vài tiểu luận nhỏ nghiên cứu đến văn học trẻ. Như vậy, khoảng trống ngăn cách giữa sáng tác với phê bình trẻ đang đặt ra là rất đáng suy ngẫm. Theo tôi, thực trạng này tồn tại là do hai nguyên nhân khách quan và chủ quan cơ bản.

Nguyên nhân khách quan có thể kể đến là sáng tác trẻ hiện nay, được xuất bản toàn quốc, đặc biệt là thông qua những kênh xuất bản, phát hành, phân phối có năng lực như PNC, Tao Đàn, Nhã Nam, Bách Việt, Đinh Tỵ, Văn Lang, Đông A, Nxb Trẻ, Nxb Tri thức, Nxb Văn học, Nxb Hội nhà văn, Nxb Kim Đồng… là rất hiếm hoi. Trừ một vài trường hợp may mắn như Uông Triều, Meggie Phạm, Kawi, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Phan Ý Yên, Tờ Pi, Anh Khang, Lê Minh Phong, Nguyễn Phong Việt, Văn Thành Lê… Còn lại đều ngậm ngùi cay đắng tự bỏ tiền in, tự phát hành (mà chủ yếu là đi cho, nài nỉ người khác đọc), hoặc phổ biến hơn là đăng tải trên nền tảng mạng. Cách thức xuất bản tự in hoặc đưa lên mạng hoặc là không chính thống, hoặc rất khó để cho các nhà phê bình trẻ có thể tiếp cận tác phẩm. Đọc lại hàng loạt tác phẩm đầy chất lượng trong dăm năm qua của Nhụy Nguyên, Lê Vũ Trường Giang, Lê Vĩnh Thái, Trịnh Sơn, Nguyễn Lãm Thắng, Đàm Huy Đông, Fan Tuấn Anh, Lê Hưng Tiến… tôi cảm thấy rất xót xa. Trong số những tác phẩm này có nhiều sáng tạo thực sự mang ý hướng cách tân về mặt hình thức, chuyển tải nội dung tư tưởng mới mẻ, nhận không ít giải thưởng danh giá cả ở trung ương và địa phương. Nhưng số bản in chỉ lèo tèo 200, 300 bản, nhiều nhất là 500 bản, với loại giấy, mực kém chất lượng, do nhà văn tự bỏ tiền nhà ra in. Sau khi in xong cũng chỉ biết gửi tặng khắp nơi, kể cả tốn tiền bưu điện gửi với một niềm mong mỏi khắc khoải, bi đát là… người được tặng đọc cho, hoặc chí ít cũng không vứt ra hàng đồng nát hay hiệu sách cũ. Có nhà văn còn nói đùa với tôi rằng, ngày nay tặng thơ văn của chính mình phải tặng kèm tiền, ít ra cũng phải 100 ngàn, gọi là thù lao đọc cho độc giả. Nghe ra thấy nền văn chương nước nhà thật là… bi tráng.

Khoảng trên dưới 10 bài phê bình của tôi thời gian qua về văn học trẻ Việt Nam, trên thực tế đều là bởi mối quan hệ cá nhân, được đích thân tác giả tặng sách (qua đây tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy, Uông Triều, Đàm Huy Đông, Phạm Phong Lan, Miên Di, Trịnh Sơn, Trần Đức Tĩnh…). Đôi khi biết có tác phẩm hay của bạn bè cùng trang lứa, muốn mua ủng hộ hay giới thiệu cho bạn bè, học trò tìm đọc hay nghiên cứu nhưng cũng chẳng thể mua được trên thị trường toàn quốc. Trong số tác phẩm được xuất bản toàn quốc, quảng bá rình rang, thực ra không phải tác phẩm nào cũng có thể lấy làm đối tượng để phê bình. Rất nhiều tác giả trẻ hàng best seller hiện nay là những người viết truyện ngôn tình, làm thơ “tán gái”. Tác phẩm của họ có thể in đến vài vạn bản, nhưng chỉ đơn giản là sự chiều lòng đám đông độc giả với tầm đón nhận trung bình dễ dãi. Tác phẩm dạng này dĩ nhiên vẫn giúp ích cho đời sống văn học nước nhà thêm sôi động, nhưng chúng hoàn toàn không có đóng góp gì trong tiến trình chuyển đổi hệ hình tư duy nghệ thuật, cách tân và làm vận động nền văn học Việt Nam đương đại. Một vài câu chuyện tình tay ba sướt mướt, cuốn này khác cuốn kia chỉ ở cái bìa hay cốt truyện, những bài thơ tình éo le, trúc trắc cảm xúc đầy tính chất… kêu gọi lòng thương hại của độc giả… thất tình hoặc FA (độc thân), thực ra không có lợi, thậm chí chỉ có hại cho tư duy thẩm mỹ, quỹ thời gian của độc giả, nhất là độc giả trẻ tuổi. Dạng văn học này ta có thể liên tưởng đến những bộ phim lê thê hàng chục ngàn tập của Ấn Độ như Cô dâu tám tuổi – vốn dành cho những bà nội trợ giết thời gian xem. Đọc/xem chúng rất dễ “gây nghiện”, nhưng không giúp người tiếp nhận hoàn thiện năng lực thẩm mỹ cũng như rút ra được tư tưởng mới về bản thể, xã hội và tồn tại. Hạn chế khách quan của người viết phê bình xuất phát từ thực tiễn sáng tạo trên, đó là những bài phê bình lấy đối tượng văn học trẻ thường khó đăng trên các báo và tạp chí. Những tổng biên tập, biên tập viên có xu hướng chấp nhận những bài viết về tác gia thành danh trên thế giới mà đặc biệt là ở Việt Nam, vì bạn đọc quen biết những tác gia này. Chẳng nhà quản lý, biên tập nào lại chấp nhận một bài phê bình mà bản thân tác phẩm không được xuất bản toàn quốc, hoặc chỉ in hạn hẹp vài trăm cuốn và tác giả tự đem đi tặng. Từ đó, xuất phát từ lí do công bố và kinh phí (nhuận bút), mà nhà phê bình trẻ thường ngại ngần đụng chạm đến văn học trẻ.

Hạn chế chủ quan trong mối quan hệ giữa sáng tác trẻ với phê bình trẻ, đó là nhà văn trẻ ngày nay (đặc biệt là những nhà thơ và những người viết truyện ngôn tình) không có nhiều cách tân về mặt tư duy nghệ thuật. Hạn chế này xuất phát từ chỗ họ chỉ sáng tạo theo cảm xúc cá nhân, lấy “vốn tự có” và năng khiếu trời cho để viết. Vốn liếng cá nhân này thường thăng hoa khi họ còn rất trẻ, mới bước vào văn đàn, thể hiện tập trung trong một vài tác phẩm đầu tay, nhưng rồi sau đó nhanh chóng cạn nguồn bởi sự ít ỏi của trải nghiệm (đọc và sống), vốn từ hạn hẹp và cái nhìn đầy chủ quan của một cá thể. Nhà văn trẻ dĩ nhiên không thể đi nhiều, biết nhiều, trải nghiệm nhiều về thực tại nhằm phản ánh vào văn học. Họ chỉ có thể lấp đầy khoảng trống tư tưởng và tư liệu ấy bằng cách đọc mà thôi. Nhưng đa phần những tác giả trẻ ngày nay lười đọc, hoặc chỉ đọc những gì mang tính giải trí, cùng trình độ. Họ rất ngại ngần trước triết học, mỹ học, lí thuyết văn học mới, dẫn đến cái nhìn thế giới và bản thể chỉ mang tính địa phương, viết theo quán tính có sẵn, rất dễ đọc, dễ hiểu và dễ dàng trôi đi mất trong sự lãng quên.

Trong một vài cuộc thảo luận gần đây, nhiều nhà văn thành danh “tung chiêu” với các nhà văn trẻ rằng viết là bất cần/biết đến các lí thuyết, đến các trào lưu mới mẻ, chỉ cần “hay” là được. Nhưng tiêu chí như thế nào để xác định là “hay”? Tôi nghĩ rằng luận điểm này đầy tính “mị dân”. Tôi không cho rằng, ngày nay, làm một bài thơ Đường là dở và làm một bài thơ Tân hình thức mới hay. Mỗi thể loại, hình thức, trào lưu đều có giá trị riêng của nó, tức là đều “hay” cả. Nói như Umberto Eco trong Đi tìm sự thật biết cười, đại ý rằng khi một nền nghệ thuật đã được lịch sử cưu mang, thì không có chuyện cái này thay thế cái kia một cách dễ dàng, mà chỉ có thể nói cái này đã thay đổi cái kia một cách sâu sắc. Eco đưa ra ví dụ đáng suy ngẫm, đó là chiếc xe đạp. Ngày nay, người ta vẫn dùng xe đạp chứ, nó vẫn rất hữu ích khi tập thể dục, thi đấu thể thao, di chuyển trong một số trường hợp đặc thù… nhưng nó không còn là phương tiện giao thông phổ biến, không còn là cách thức và động lực di chuyển chính của xã hội. Xã hội hậu công nghiệp ngày nay hầu như không ai chuyên chở, giao thương, truyền tin… bằng xe đạp nữa, trừ một vài người bán hàng rong vì quá nghèo và nhu cầu đi chậm để buôn bán. Vị thế xe đạp không mất đi hẳn trong xã hội, nhưng chức năng đã thay đổi hoàn toàn khác trước. Thơ Đường ngày nay vẫn cần thiết chứ, vẫn hay chứ, nhưng xây dựng diện mạo thơ đương đại Việt Nam bằng thể loại này thì chẳng khác gì ngày nay ta vẫn đi xe đạp để tiếp đón nguyên thủ quốc gia nước bạn, dùng xe đạp ôm thay taxi, hay chuyển phát “nhanh” EMS bằng xe đạp. Như thế thì chậm quá, lạc hậu quá, thậm chí là bôi bác, dã man. Ngày nay, chúng ta vẫn bảo tồn nhã nhạc cung đình, tuồng, chèo, cải lương, hát xoan… thậm chí còn xem đó là di sản phi vật thể, là hồn cốt của dân tộc. Nhưng dứt khoát đó không thể là diện mạo đương đại và tương lai của nền nghệ thuật nước nhà. Thế giới không trao Nobel cho các vở kịch truyền thống kiểu tuồng, chèo. Họ cũng không mấy hiểu các thể loại này bởi nước họ không hề có, do đó, những di sản phi vật thể nói trên là cái mà chúng ta có thể giới thiệu về bản sắc dân tộc mình trong quá khứ, nhưng không thể là cách mà ta đối thoại với bên ngoài. Nhã nhạc cung đình ngày nay được bảo tồn khá tốt, đã được Unesco phong di sản phi vật thể của thế giới, nhưng cái không gian để diễn xướng của nó đã mất đi hoàn toàn, chúng ta không thể nào phục dựng. Nhã nhạc không phải là thứ âm nhạc thông thường nghe để vui tai, giải trí, nó là nhạc nghi lễ cung đình, giá trị của nó nằm phần lớn ở sự uy nghiêm, trọng đại khi các nghi lễ hoàng gia diễn ra (lễ tế giao, lễ đăng quang của vua)… Chúng ta ngày nay dù rất cố gắng nghe nhã nhạc cung đình, nhưng gần như không thể hiểu, dẫn đến không thể thích (trừ những người dối trá) là bởi cái không – thời gian phong kiến cung đình đó đã hoàn toàn bị mất đi. Làm những bài thơ “hay” theo kiểu thơ Đường ở thời điểm hiện tại hệt như việc ta đi lại trên những con đường quen thuộc đã dày đặc, chi chít những dấu chân của tiền nhân. Những bước đi ấy không vô nghĩa, nhưng nó không mở mang ra được một con đường mới, tư tưởng mới, tương lai mới cho đời sống văn học nước nhà nói riêng và đời sống tinh thần Việt Nam nói chung. Tôi từng xem những di sản văn hóa/học cũ như những chiếc rìu đá, chúng ta giữ gìn trân trọng trong những viện bảo tàng như một kí ức chứ không phải là niềm hi vọng của hiện tại và tương lai. Không thể có một nghệ thuật cao sang mà lại sống lay lắt bằng tiền bảo trợ của chính phủ hoặc Liên hiệp quốc. Người ta trân trọng và giữ gìn chiếc rìu đá như là một kí ức, một chứng nhân của thời đại mông muội đã qua đi, để cất giữ nhận thức về những gì mà loài người, dân tộc đã có. Sẽ không có ai tin, và cũng không còn ai hy vọng, một ngày kia, nền văn hóa rìu đá kia lại trỗi lên, và loài người lại dã man trần truồng chạy thục mạng trong rừng xanh để săn bắt, hái lượm. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng cũng vậy, có những vấn đề không được phép lãng quên, nhưng chỉ nhớ để mà làm kí ức, hiện tại mới là nơi chúng ta sống, và hiện tại luôn có những tiêu chí cho riêng mình.

Tôi cũng cho rằng viết văn ngày nay phải dựa trên quan điểm quốc tế, trình độ đương đại (hiện đại/hậu hiện đại) nếu muốn đi xa trong nghề nghiệp. Nhà văn có thể viết cô độc, một mình, thậm chí chết trong cô đơn, nhưng anh ta không được phép giới hạn tầm nhìn, sự hiểu và tư tưởng của mình trong vấn đề cá nhân tầm thường, suy đoán chủ quan. Nhà văn đương đại đang sống trong một thế giới phẳng, thế giới cỡ nhỏ, nơi toàn cầu hóa biến thế giới rộng lớn thành một ngôi làng, nên văn chương đích thực ngày nay muốn tồn tại phải mang tầm nhân loại, kịp thời bắt kịp trình độ những trường phái lí thuyết, trào lưu nghệ thuật lớn đang thịnh hành trên thế giới. Tôi không nghĩ phải buộc nhà văn đi học lí thuyết văn chương hay triết/mỹ học đương đại phương Tây. Khi sáng tạo tôi cũng không hề tin nhà văn phải gượng ép, sống sượng đưa những lí thuyết ấy vào. Về cơ bản, anh ta vẫn được phép hoàn toàn tự do và vô tội trước tờ giấy trắng. Nhưng tầm vóc văn hóa, tầm đón nhận, căn nền tri thức của nhà văn đương đại không thể gói gọn vào kinh nghiệm cá nhân hay những điển phạm văn chương trung đại nữa. Biết (lí thuyết, trào lưu, triết học đương đại) không phải để áp dụng khiên cưỡng, ám thị vào sáng tạo tác phẩm, mà biết để càng làm giàu hơn bản sắc dân tộc, làm đẹp hơn truyền thống văn học nước nhà. Điều này giống như bác sĩ Đông Y ngày nay càng cần phải biết những tri thức Tây Y, bởi nó sẽ hỗ trợ rất tốt cho điều trị Đông Y (nhất là xét nghiệm cận lâm sàng). Nhờ thông hiểu Tây Y mà thầy thuốc Đông Y sẽ bước qua được sự mê tín quàng xiên, những dự đoán mù mờ, những giới hạn tất yếu, nhằm chữa bệnh theo phương pháp cổ truyền một cách chính xác, hiệu quả.

Nhiều nhà văn thành danh cổ vũ tác giả trẻ viết bất cần kĩ thuật, xem thường hình thức, phải “vô chiêu thắng hữu chiêu”, văn chương là chuyện miêu tả, phát hiện con người chứ không phải là câu chuyện của thuần túy hình thức nghệ thuật. Tôi xin thưa nền văn học của chúng ta lâu nay có chiêu nào đặc sắc, tuyệt chiêu đâu mà cổ vũ vô chiêu với hư chiêu. Xét về trình độ viết, kĩ thuật viết, nền văn học nước nhà đã lạc hậu so với phương Tây hàng nửa thế kỉ. Một vài người cô đơn như Đặng Thân, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái… chỉ là thiểu số. Họ có thể sắp tuyệt chủng rồi. Chúng ta cần cổ vũ và bảo tồn họ chứ không phải cổ vũ và bảo tồn đám đông vô chiêu hay hư chiêu kia. Văn học là câu chuyện hình thức nghệ thuật chuyển tải nội dung nghệ thuật. Không có hình thức hay sao đòi có nội dung tốt. Muốn làm người tốt thì anh phải là người đã chứ, làm bóng ma không hình dạng sao mà tốt được. Hạn chế chủ quan của những nhà phê bình trẻ cũng cần được chỉ ra đó là tâm lý “ăn chắc mặc bền”, “cẩn tắc vô áy náy” trong khi viết. Họ lựa chọn những giá trị đã ổn định, đối tượng sống tận bên trời Tây, hoặc đã chết xương ra tro từ lâu để thỏa thuê viết. Rõ ràng viết về đối tượng đương đại, đang sống, đang vận động, chưa định hình và ổn định về mặt giá trị cũng như đường hướng sáng tác rõ ràng tiềm chứa nhiều nguy cơ nguy hiểm.

Muốn giải quyết những giới hạn chủ quan và khách quan nói trên của cả sáng tác và phê bình trẻ, tôi nghĩ chúng ta phải có hành động từ nhiều phía. Về phía sáng tạo, các nhà văn trẻ cần tích cực nâng cao tầm tư duy hệ hình nghệ thuật, cập nhật những lí thuyết, trào lưu mới mẻ đương đại trên thế giới. Họ cũng cần biết PR sách của mình, tự giới thiệu mình với những kênh xuất bản, phát hành lớn, toàn quốc. Từ phía phê bình trẻ rất cần sự quan tâm đến những cây bút mới, trẻ tuổi. Họ cần dũng cảm thực hiện thiên chức phát hiện, định hướng và làm bệ đỡ cho sáng tác, hơn là chỉ phê bình bốc thơm, phê bình cánh hẩu, phê bình lăng xê, hoặc rút lui vào tháp ngà kinh điển. Từ phía những cơ quan lãnh đạo, quản lí văn nghệ, cần tạo ra những quỹ hỗ trợ sáng tạo trẻ, những sân chơi, giải thưởng, cuộc thi cho phê bình trẻ và sáng tạo trẻ. Từ đó kịp thời động viên cho người trẻ tuổi làm văn chương. Tôi nghĩ, một nền văn chương công chính và tương lai của văn học Việt Nam nằm cả ở sự nghiệp ấy.

P.T.A

Phan Tuấn Anh
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 267

Mới nhất

Lời cảm ơn của Tạp chí Cửa Việt nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

19 Giờ trước

TCCV Online - Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6 (1925-2025), Tạp chí Cửa Việt vinh dự được đón các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh, các sở, ban, ngành, đoàn thể, các huyện, thị xã, thành phố, các đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức, doanh nghiệp và các cộng tác viên, bạn đọc thân thiết… đã đến thăm, gửi lẵng hoa chúc mừng. Ban Biên tập Tạp chí Cửa Việt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm và niềm tin yêu, quý mến đó.

“Ai đó chết rồi chôn rồi hết” - thơ của người “bị bắt làm người”

21 Giờ trước

TCCV Online - Bây giờ in thơ thì dễ và rất nhiều tập thơ được in ra. Nhưng in thơ và bán thơ để làm thiện nguyện như Bùi Viết Anh thì không nhiều người dám làm. Vì đây là việc không dễ, khi người làm thơ thì nhiều, còn người đọc lại rất kén đọc thơ. Trong bối cảnh đó, thơ Bùi Viết Anh thu hút người đọc bởi cách cảm, cách nghĩ, lối viết có nét riêng, cá tính, không lẫn vào “đám đông”. Điều này được thể hiện đậm nét qua tập thơ “Ai đó chết rồi chôn rồi hết” của Bùi Viết Anh vừa trình làng thông qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

''Dấu ấn miền đất lửa''

20/06/2025 lúc 01:29

Hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025); kỷ niệm 35 năm Tạp chí Cửa Việt xuất bản số đầu tiên (1990 - 2025) và gặp mặt cộng tác viên năm 2025...

Trao giải cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” tỉnh Quảng Trị năm 2025

19/06/2025 lúc 16:25

Sáng nay 19/6, Ban tổ chức cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” tỉnh Quảng Trị tổ chức lễ tổng kết và trao giải cuộc thi năm 2025.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

22/06

25° - 27°

Mưa

23/06

24° - 26°

Mưa

24/06

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground