Sau thất bại ở Đường 9 - Nam Lào năm 1971, quân chủ lực ngụy gần như suy sụp, tình hình diễn biến ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Theo dõi sát mọi chuyển động trên chiến trường, trong nước, trong khu vực và trên thế giới có liên quan tới cuộc chiến Việt Nam, Đảng ta nhạy bén phát hiện được thời cơ và nắm lấy thời cơ đó phát động cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam nhằm vào ba hướng chính: Trị - Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Trong đó, chiến trường Trị - Thiên có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược ở miền Trung và Tây Nguyên của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Sau khi phân tích, nhận định tình hình giữa ta và địch trên các chiến trường, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định lấy chiến trường Trị - Thiên làm hướng tấn công quan trọng. Quân ủy Trung ương chỉ rõ: Chiến dịch Trị - Thiên là một chiến dịch quy mô lớn, một chiến dịch hợp đồng binh chủng, chiến dịch tổng hợp cả quân sự và chính trị.
Ngày 11 - 3 - 1972, sau khi soát xét lại kết quả chuẩn bị trên các chiến trường, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết tiến hành cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Trị - Thiên được xác định “là hướng chiến lược chủ yếu nhằm tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”. Ngày 23 - 3 - 1972, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thông qua lần cuối và phê chuẩn kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972 và ra quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên 1972 (Bộ Tư lệnh 702), do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Lê Quang Đạo làm Chính ủy; Các đồng chí Hồ Sĩ Thản (Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị) và đồng chí Trần Đồng (Bí thư Khu ủy Vĩnh Linh) được chỉ định tham gia chiến dịch.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Trị, sau khi nắm được tinh thần của chiến dịch tiến công chiến lược 1972, các địa phương, đơn vị khẩn trương chuẩn bị lực lượng hậu cần và địa bàn ứng chiến. Bộ đội địa phương lúc này có 2 tiểu đoàn, 6 đại đội bộ binh, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội đặc công. Các huyện thị có 8 đội biệt động, 3 đội đặc công, 6 đại đội và 3 trung đội bộ binh, 2.600 dân quân du kích. Bộ đội chủ lực của Bộ Quốc phòng ở Quảng Trị trong chiến dịch này ban đầu có 4 sư đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn đặc công, 6 trung đoàn pháo xe kéo, 1 trung đoàn pháo mang vác, 2 đại đội tên lửa chống xe tăng, một số tiểu đoàn, đại đội pháo địa phương và một sư đoàn pháo phòng không. Trong đội hình chiến dịch có 2 sư đoàn pháo phòng không bảo vệ phía sau, 2 trung đoàn tên lửa, 10 đại đội và 7 tiểu đoàn cao xạ của các đơn vị bộ đội bộ binh, 7 chi đoàn thiết giáp với tổng số 214 chiếc, trung đoàn 126 hải quân và khu vực 5 hải quân.
Về địch, tính riêng ở Quảng Trị có 16 tiểu đoàn bộ binh, 7 chi đoàn thiết giáp, 7 tiểu đoàn pháo, 43 đại đội bảo an, 500 đội phòng vệ dân sự, 1 tiểu đoàn cảnh sát dã chiến. Tổng số quân của chúng khoảng 50.000 người, trong đó có 39.000 quân chủ lực. Địch tổ chức thành 5 khu vực phòng thủ cấp trung đoàn. Khu vực then chốt của sư đoàn 3 ngụy là Đông Hà, Ái Tử. Sở chỉ huy, Bộ chỉ huy của sư đoàn 3 đặt tại Ái Tử.
Đến ngày 26 - 3 - 1972, mọi chuẩn bị cơ bản cho chiến dịch đã hoàn thành. Cục vận tải, đoàn 559 và đoàn vận tải Quân khu 4 cùng hàng ngàn thanh niên xung phong, dân quân hoả tuyến của Quảng Bình, Vĩnh Linh đã có những cố gắng phi thường vận chuyển vượt cung “phá tuyến” chuyển hàng cho yêu cầu chiến dịch. Sư đoàn 308 hành quân vào sau cũng đã có mặt ở bờ Bắc sông Bến Hải.
Đến lúc các binh đoàn chủ lực của ta đã cài thế chiến dịch xong, chỉ còn hai ngày là bắt đầu trận đánh, lúc đó địch mới phát hiện ra, nhưng tất cả đều đã quá muộn. Chiến dịch tấn công Quảng Trị 1972 của ta bắt đầu.
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 - 3 - 1972 lệnh tấn công được phát ra. Trận đánh mở màn là trận phục kích phía Nam khu vực điểm cao 322, 288, 166, cầu Thiện Xuân của Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 27). Bí mật, bất ngờ, cả mặt trận lao vào chiến dịch. Các cụm pháo của ta từ nhiều hướng ở Vĩnh Linh, ở trận địa miền Tây… bắn mãnh liệt vào các cứ điểm 54, Đồi Tròn, Đầu Mầu, Ba Hồ, Động Toàn, Quán Ngang, Nhĩ Trung, Dốc Miếu, Cồn Tiên... khiến toàn bộ hệ thống vòng ngoài của địch ở cửa ngõ phía Bắc bị xé toang, vành đai thép, “con mắt thần điện tử” Mc Namara bị đập tan tành. Các cứ điểm Ba Hồ, Động Toàn, cao điểm 365, 544, 241... ở phía Tây và các cứ điểm Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, miếu Bái Sơn ở phía Bắc cùng một lúc bị san bằng nhanh chóng.
Ngày 1 - 4 - 1972, Sư đoàn Quân tiên phong (308) từ Vĩnh Linh vượt sông Bến Hải theo điểm cao 161, 135 ra Bái Sơn tiến theo trục đường số 1 vào cầu Đông Hà, đánh sập cầu Đông Hà và chia thành 3 mũi: mũi thứ nhất đánh vào Đông Hà mũi thứ hai vượt cầu Đuồi theo đường 9 đánh vào điểm cao 30, mũi thứ ba vượt qua Quất Xá, Nghĩa Hy tiến xuống Đông Nam uy hiếp phía Tây Đông Hà.
Sáng ngày 2 - 4 - 1972 ta tiến công căn cứ Tân Lâm, căn cứ sở chỉ huy Trung đoàn 56 ngụy. Khiếp đảm vì hoả lực pháo binh của ta bao vây, bọn cố vấn Mỹ bỏ chạy, toàn bộ quân ngụy trong căn cứ, gồm cả chỉ huy, cơ quan tham mưu trung đoàn, cùng một tiểu đoàn bộ binh và nhiều đơn vị trực thuộc do trung tá Trung đoàn trưởng Phạm Văn Đính, thiếu tá Trung đoàn phó Vĩnh Phong cầm đầu phải đầu hàng. Toàn bộ các vị trí địch trên bốn cánh cung Đông - Tây - Nam - Bắc được mệnh danh “lá chắn thép”, “pháo đài bất khả xâm phạm” bị ta xoá sổ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là các tổ chức đảng địa phương, tiếng súng công đồn đến đâu là nhân dân nhất tề đứng dậy diệt đồn, phá bốt cùng với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương truy kích địch, làm chủ quê hương. Ngày 2 - 4 - 1972, hai huyện Gio Linh, Cam Lộ hoàn toàn giải phóng, vùng giới tuyến khu phi quân sự được mở toang.
Bị đòn bất ngờ, tuyến phòng ngự mạnh nhất ở vòng ngoài bị vỡ, địch ồ ạt tăng quân để chi viện, đối phó. Trong 5 ngày chúng đã đưa 3 liên đoàn biệt động quân, 2 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến và 2 thiết đoàn kỵ binh ra Quảng Trị. Đồng thời Mỹ đưa 1 tàu sân bay và 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến ở bờ biển Quảng Trị để chi viện tối đa phi pháo (cả máy bay B52 và pháo hạm) để ngăn chặn sự tiến công của ta, cứu nguy cho quân ngụy. Tổng thống Mỹ Ních Xơn ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc, Chính phủ Mỹ đơn phương ngừng các phiên họp ở hội nghị Paris và vội vã đưa không quân, hải quân trở lại tham chiến ở Việt Nam.
Sau hai ngày gấp rút chuẩn bị cơ sở vật chất và điều chỉnh lực lượng, chúng ta mở đợt tấn công thọc sâu vào trung tâm phòng ngự của địch. Đúng 15 giờ ngày 8 - 4 - 1972, các đơn vị pháo binh của ta bắn phá dữ dội cụm căn cứ Đông Hà - Ái Tử - La Vang. Ngày 9 - 4 - 1972, trên hướng Đông Hà, bộ binh và xe tăng ta đột phá mãnh liệt trên một cánh cung dài 8 km phía Tây - Bắc Đông Hà Trung đoàn 24 (Sư đoàn 324) được xe tăng yểm trợ đánh vào căn cứ Phượng Hoàng (Ái Tử); Trên mặt trận cánh Đông, 2 tiểu đoàn đặc công (19, 25) và Tiểu đoàn 47 của khu vực Vĩnh Linh vượt sông Cửa Việt, tiến công địch ở một số xã phía Bắc huyện Triệu Phong. Lực lượng bộ đội địa phương Quảng Trị đã khẩn trương luồn sâu xuống đồng bằng. Du kích, cán bộ chính trị, cơ sở quần chúng trong vùng địch tạm chiếm vừa hoạt động nhỏ lẻ, rộng khắp, vừa giúp bộ đội chủ lực chuẩn bị chiến trường tạo thế và lực cho đợt tấn công mới. Trước tình hình nguy cấp, địch điều động lực lượng dự bị chiến lược ra Huế. Mỹ dùng máy bay và pháo hạm đánh phá ác liệt hòng ngăn chặn lực lượng ta.
Sáng ngày 27 - 4 - 1972, trong lúc địch còn hoang mang, dao động, ta tiến công đợt 2 bằng các trận pháo kích lên các cứ điểm phòng ngự và co cụm của địch ở Đông Hà và La Vang. Sư đoàn 308 được xe tăng, pháo binh, tên lửa yểm trợ đã tấn công từ 3 hướng, tổng công kích vào cứ điểm Đông Hà đến 15 giờ 30 phút ngày 28 - 4 - 1972 giải phóng thị xã Đông Hà, đánh sập cầu Lai Phước chặn đường chi viện của địch.
Ở hướng Đông, Trung đoàn 27 và Tiểu đoàn 66 bộ binh, thiết giáp cùng các lực lượng địa phương: Tiểu đoàn 3; Tiểu đoàn 47 (khu vực Vĩnh Linh), các Đại đội địa phương Triệu Phong, Hải Lăng; ngoài ra Khu đội Vĩnh Linh tăng cường thêm Đại đội 11 bộ binh, Đại đội 18 pháo cối, Đại đội 14 công binh phối hợp, ngày 28 - 2 - 1972 từ Cửa Việt tiến công, đột phá hệ thống phòng thủ của địch dọc vùng đồng bằng Triệu Hải. Quân ta tiến đến đâu đều được nhân dân ở đó phấn khởi chào đón và phối hợp đấu tranh bằng sức mạnh áp đảo, bằng binh vận kêu gọi địch nhanh chóng hạ vũ khí đầu hàng.
Sáng ngày 30 - 4 - 1972 sau đợt bắn phá hoả điểm địch, các lực lượng đánh tràn qua sân bay, xông thẳng vào căn cứ Ái Tử chiếm kho xăng và Sở chỉ huy Sư đoàn 3. Đúng 14 giờ ngày 30 - 4 quân ta hoàn toàn làm chủ Ái Tử, cờ giải phóng tung bay trên đài chỉ huy sân bay.
Sau khi chiếm được Đông Hà, La Vang, Ái Tử, các cánh quân chủ lực và lực lượng quân khu từ nhiều hướng tập trung tấn công giải phóng thị xã Quảng Trị. 11 giờ ngày 1 - 5 - 1972 địch bắt đầu rút khỏi thị xã Quảng Trị với ý định lui quân có tổ chức để bảo toàn lực lượng, nhưng không ngờ chúng đi đến đâu cũng bị đánh, chạy đâu cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30km từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành “đại lộ kinh hoàng” đối với Mỹ ngụy. Các cố vấn Mỹ lên trực thăng bay về Sài Gòn, chuẩn tướng Vũ Văn Giai tư lệnh Sư đoàn 3 ngụy lên máy bay chuồn về Đà Nẵng bỏ mặc quân lính hỗn loạn. Cùng lúc này nhân dân và du kích hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng nổi dậy tiến công, phối hợp cùng với bộ đội chủ lực truy kích, phá đồn bốt và hệ thống kìm kẹp của địch. Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) tiến vào thị xã Quảng Trị, cắm lá cờ vinh quang của Tổ quốc lên Toà hành chính Quảng Trị vào ngày 1 - 5 - 1972.
Sau 2 đợt tấn công và nổi dậy từ ngày 30 - 3 đến 1 - 5 - 1972, quân và dân ta đã hợp đồng chặt chẽ tấn công, quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất và đập tan bộ máy kìm kẹp tàn bạo của Mỹ - ngụy từ sông Bến Hải đến Mỹ Chánh, từ Khe Sanh đến Cửa Việt, một vùng đất rộng lớn của quê hương được hoàn toàn giải phóng.
Thất thủ ở Quảng Trị báo hiệu sự sụp đổ của chế độ Mỹ - ngụy ở miền Nam đã đến gần. Vì vậy, kẻ thù điên cuồng tập trung lực lượng mở những cuộc phản kích ồ ạt để chiếm lại Quảng Trị, chúng tung vào đây một lực lượng quân đội khổng lồ với nhiều binh chủng, nhiều sư đoàn mạnh nhất của quân lực Việt Nam Cộng hòa, trong đó có cả những sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia. Tập trung hoả lực cả không quân và hải quân, chúng tổ chức thành 2 hướng tiến công hòng tái chiếm thị xã Quảng Trị.
Nhân dân phía Nam Quảng Trị lại phải đương đầu với thử thách mới, một thử thách vô cùng quyết liệt. Bộ đội địa phương, du kích vừa phối hợp khẩn trương đưa 8 vạn dân thị xã và 2 huyện Triệu Phong, Hải Lăng đến các nơi an toàn, vừa tổ chức nhiều đợt tập kích đánh địch ở nhiều hướng. Khắp các xã, phường phía Nam tỉnh, trên tuyến sông Vĩnh Định, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích nung nấu lời thề “còn người còn trận địa, quyết tử bảo vệ quê hương”, kiên cường chiến đấu không cho địch vào thị xã.
Sáng ngày 28 - 6, với sự chi viện của không quân và hải quân Mỹ, các sư đoàn chủ lực ngụy bắt đầu ồ ạt tiến công sang bờ Bắc sông Mỹ Chánh thực hiện cuộc hành quân “tái chiếm lãnh thổ”. Cuộc chiến đấu chốt giữ thị xã và Thành Cổ Quảng Trị diễn ra quyết liệt từ trung tuần tháng 7 trở đi. Quân và dân Quảng Trị cùng với bộ đội chủ lực kiên cường đánh trả địch phản công. Sau 20 ngày tiến công vào thị xã, địch chỉ lấn thêm đến làng Tri Bưu, làng Cổ Thành và chợ Sãi. Với ý chí “còn người, còn trận địa”, “K3 Tam Đảo còn, Thành Cổ Quảng Trị còn” đã đánh bật nhiều đợt phản kích của địch. Có ngày quân địch chiếm được gần hết làng Tri Bưu và làng Cổ Thành nhưng mọi cuộc tấn công ồ ạt của chúng đều bị chặn lại trước những chốt thép kiên cường của quân ta. Du kích và cán bộ cơ sở ở những vùng phía Nam tỉnh đã không quản hy sinh, gian khổ dưới làn mưa bom, lửa đạn của kẻ thù, bám trụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Với chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”, nhảy cóc không thành, địch buộc phải chuyển sang “đánh chắc tiến chắc” nhằm giảm bớt thương vong. Và với chiến thuật “chậm chắc” mỗi khi gặp ta là địch dừng lại, gọi bom, pháo đánh rồi mới tổ chức tiến công tiếp. Bởi vậy, trên dải đất dài, hẹp chỉ vài cây số vuông của thị xã và Thành Cổ Quảng Trị, suốt ngày bom đạn nổ rền rĩ, mặt đất như chảo lửa lớn.
Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ ác liệt và hy sinh, các chiến sĩ của ta đã chiến đấu kiên cường, chỉ trong vòng từ 28 - 6 đến 27 - 7 - 1972, các đơn vị chốt giữ thị xã và Thành Cổ đã đánh thiệt hại nặng lữ đoàn dù 2 và 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, buộc sư đoàn dù (đã bị thương vong gần 5.000 tên) phải lui về phía sau củng cố. Để hỗ trợ cho tinh thần quân ngụy, ngoài máy bay chiến thuật, chiến lược oanh tạc theo yêu cầu của bộ binh ở tiền tuyến, Mỹ còn cho pháo hạm, pháo mặt đất tầm xa bắn tới hai vạn viên đạn suốt một ngày. Về phía ta, để giữ được Thành Cổ, chiến sỹ ta đã phải sử dụng chiến thuật phối hợp hỏa lực và vận động, dùng pháo binh, xe tăng dẫn đầu đánh tan những vị trí địch yếu kém. Bước sang tháng 8 và tháng 9, cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch ở khu vực thị xã và Thành Cổ ngày càng diễn ra ở mức độ cao hơn. Địch tập trung đánh phá dữ dội tuyến hành lang chiến lược gây cho ta nhiều thiệt hại về người và của, khiến cho khẩu phần ăn, nước uống của chiến sĩ chốt giữ thị xã giảm dần, chiến sĩ ta phải sống bằng lương khô, nước lã, bắn dè sẻn từng viên đạn trong vòng vây ngày càng thít chặt của kẻ thù. Trước tình thế đó, buộc quân ta phải rút lui hồi 18 giờ ngày 16 - 9 - 1972.
Trải qua 81 ngày đêm để chiếm lại Thành Cổ Quảng Trị (từ 28 - 6 đến 16 - 9 - 1972), trên một diện tích đất nhỏ hẹp 16 ha và cả thị xã Quảng Trị hơn 3km2, Mỹ đã ném xuống đây 328.000 tấn bom, có ngày lên đến 13.000 quả đạn pháo, các xã ven Thành Cổ chịu đựng từ 100 đến 140 phi vụ ném bom B52. Báo chí phương Tây thời đó bình luận, khối lượng bom Mỹ ném xuống Thành Cổ tương đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) năm 1945. Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị kéo dài 81 ngày đêm gắn cùng với dòng sông Thạch Hãn máu lửa đã đi vào lịch sử như bản hùng ca bất tử, lay động lương tri loài người, trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mãi mãi khắc ghi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Thắng lợi chiến dịch Xuân - Hè 1972 giải phóng Quảng Trị và cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ là những mốc son chói lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta. Những sự kiện đó đã trở thành vấn đề chính trị trung tâm làm lung lay cả nước Mỹ, dập tắt ý đồ leo thang chiến tranh của các thế lực hiếu chiến, góp phần buộc đế quốc Mỹ phải nối lại đàm phán và ký kết Hiệp định Paris. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần quyết định làm chuyển biến mạnh mẽ thế bố trí chiến lược giữa ta và địch, tạo tương quan lực lượng có lợi cho ta phát huy sức mạnh tổng hợp để quân và dân ta mở cuộc tấn công vũ bão, thần tốc làm nên đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
T.Q.H