LTS: Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán làng An Bình, xã Cam Thanh (nay là xã Thanh An), huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Anh đang làm việc và sinh sống tại TP. Hồ Chí Minh và là Hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.
Nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn Sông vẫn chảy đời sông, gồm gần 40 tản văn là những bài viết về quê hương, tuổi thơ, con người, vùng đất Quảng Trị, đọng lại trong các trang viết là lịch sử, văn hóa, phong tục, ẩm thực đặc sắc của một miền đất có bề dày hàng nghìn năm. Có thể nói, Sông vẫn chảy đời sông là một cách “về nguồn” của nhà văn Nguyễn Linh Giang…
Cửa Việt xin giới thiệu hai tản văn trích từ tập Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên, 2023).
Đói lòng ăn nửa trái sim...
Trời Quảng Trị mùa hè nắng cháy, gió Lào thổi rát đến bỏng da. Vào mùa tháng sáu, những đồi cây rừng lúp xúp bạt ngàn cỏ tranh và sim. Ngày còn nhỏ, tôi vẫn còn nhớ câu đố: Bằng đốt ngón tay / Dui day ra máu / Về tiết tháng sáu / Con cháu đi tìm / Là quả gì? Không khó lắm để những đứa trẻ trả lời, đó là quả sim. Nhớ về sim, trong tôi không có ấn tượng nhiều bởi màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt, mà nhớ hoài câu thơ da diết, thân thuộc như một lời ca dao: Đói lòng ăn nửa trái sim / Uống lưng bát nước đi tìm người thương (thơ Kiên Giang).
Cây sim là cây rừng, mọc tự nhiên bạt ngàn. Hồi trước, ở Quảng Trị sim có rất nhiều ở vùng đất Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh, Hướng Hóa. Cây sim hợp với nắng, gió và đất khô cằn. Sim thường mọc lẫn vào cỏ tranh. Ở những chân đồi thoai thoải, ở triền dốc thì sim cho trái trĩu cành, hoa nở nhiều và tím nhưng nhức, trái sim thì chín mọng. Ngược lại, ở những thung lũng ẩm thấp, cây sim to lớn nhưng không đơm hoa kết trái, chỉ để làm củi. Ở quê tôi, vùng đồi Đùng, tiếp theo là Khe Đất, Khe Đá… bạt ngàn cây sim, cây móc, cây muồng. Những trái cây rừng ngon ngọt của mùa thơ dại. Những năm học cuối cấp 2, ngày hè tôi cùng lũ bạn chăn trâu vào đồi Đùng là nơi lý tưởng để thả trâu ăn cỏ hàng ngày. Trong lũ bạn, có vài đứa con gái và X là người nổi bật hơn cả. X lớn hơn tôi một tuổi, nhưng chúng tôi cũng xưng mày tao như cùng trang lứa. Con gái nông thôn nhưng X có nước da trắng ngần, tóc dài, giọng nói hay, líu ríu như chim. Nhà X khá giả, thường thì anh trai X đi chăn trâu, lâu lâu cô mới tham gia nhưng rất mê các trò chơi nghịch ngợm. Có lần, cùng lũ bạn đi hái sim trên đồi Đùng, lớ ngớ thế nào cuối cùng tôi và X cùng đi một hướng. Những đồi sim nối tiếp nhau, trái chín lúc lỉu. Chúng tôi mê mải hái sim ăn, miệng đứa nào cũng đen nhẻm. Đang vít cành hái sim, chợt X la lên, nằm lăn dưới gốc cây. Một con ong đất từ đâu chui vào áo cô. X đang bứt tung áo, dãy nút bóp làm áo mở toang. Bầu ngực thanh tân, trắng nõn của X phập phồng đập vào mắt tôi làm đầu tôi như có một luồng điện xẹt ngang, ngỡ ngàng. Rồi tôi cũng nhớ, theo tiếng chỉ dẫn của X, tìm bắt được con ong đất. Sau phút giây thẹn thùng, mắt mở to, cuối cùng X cũng giật mạnh tay, choàng vạt áo che lại bộ ngực và cài lại dãy nút bóp. Con gái mới lớn, thời trước chưa mặc nịt ngực như sau này. Khoảnh khắc nhìn thấy bầu ngực của thiếu nữ mới lớn đã làm tôi bừng tỉnh, choáng váng… Những lần đi chăn trâu sau đó, tôi hay giúp X chặt củi để buổi chiều đi chăn trâu về có thêm bó củi phụ giúp mẹ nấu nướng. Nhiều bó củi là những thân cây sim chặt vội, bó lại. Cho anh chút chỉu chìu chiu / Anh bứt chạc (1) chìu bó củi cho em (ca dao).
Cây sim gần gũi, gắn liền với công việc nhà nông: Sim ra nụ, lúa có đòng / Sim ra hoa, cày ngả / Sim ra quả, cày cấy / Sim được lấy, cấy xong (tục ngữ). Hàng năm, từ tháng sáu đến tháng mười, sau mùa hoa sim tím hoang hoải những vùng đồi sẽ đến lúc cây sim cho những quả chín mọng nước tím đen, ăn ngọt, thơm của trái rừng. Trái sim là của trời cho, là loại trái cây đại hào phóng với những người đi bứt tranh, chặt củi. Đối với trẻ chăn trâu hàng ngày, đi hái sim trên rú(2) là những kỷ niệm vui, ngọt ngào. Đến mùa sim, người lớn cũng đi hái sim về mang ra chợ bán, cũng có đồng ra đồng vào, kiếm gạo. Người ta bán sim bằng lon sữa bò ở hầu hết các chợ quê. Trái sim vừa là quả ăn chơi, vừa là quả cho thu nhập. Khi có nhiều sim, ngoài mang sim ra chợ bán, người ta còn làm rượu sim để uống, bồi bổ sức khỏe. Rượu sim rất dễ làm. Sau khi hái sim về, rửa sạch đất cát, để cho ráo nước, cắt bỏ tai sim (phần đầu quả sim). Dùng bình thủy tinh, cho một lớp quả sim, rải lên một lớp đường cát hay đường phèn theo tỷ lệ 2 sim:1 đường. Đậy kín bình lại, khoảng ba tháng sau thì dùng được.
Ở đảo Phú Quốc (Kiên Giang), từ lâu các vườn sim rừng tự nhiên mọc hoang dã trên núi, sườn đồi đã tạo nên những đồi sim rộng lớn, phục vụ cho du lịch. Rượu sim Phú Quốc đã trở thành thương hiệu, được khách du lịch ưa chuộng, mua về làm quà. Ở huyện Lạc Sơn (tỉnh Hòa Bình), nắm bắt thị trường, người dân đã đi đào cây sim rừng về trồng, tạo nên những trang trại sim rộng hàng chục hecta, mỗi trang trại có hàng vạn cây sim. Vào mùa hoa, cây sim nở hoa tím hồng, bông hoa rất lớn, lâu tàn, vẻ đẹp màu tím hoa sim mộc mạc đã thu hút khách du lịch đến tham quan, chụp ảnh. Trái sim chín dùng để chế biến rượu sim, siro sim, mật sim, mứt sim, sim khô. Gần đây, khách hàng Nhật Bản còn đặt mua hoa sim để làm… trà sim! Quảng Trị là nơi có khí hậu khắc nghiệt, nơi “đất cày lên sỏi đá”, thổ nhưỡng rất hợp với cây sim. Đã qua rồi cái thời những đồi sim không đủ quả nuôi người; bây giờ có những đồi sim như thế chắc chắn có thu nhập cao từ trái sim chín hay làm du lịch.
Tháng sáu vừa rồi, tôi về thăm quê. Đồi Đùng bây giờ chỉ còn những bụi sim lác đác. Đồi Đùng được trồng bạt ngàn cây tràm, cây cao su. Muốn tìm sim, phải lặn lội qua xứ rú Con Bò. Đứng ở đồi sim giữa buổi trưa nắng gió, trong tôi trào dâng lời ca của Vũ Đức Sao Biển: Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ / Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ / …Giữa thu vàng, bên đồi sim trái chín / Một mình ta ngồi khóc tuổi thơ bay (Thu hát cho người). Cô bạn X tuổi hoa niên, người bạn gái chăn trâu ngày ấy đã làm tôi bừng thức, choáng váng đến run rẩy - người bây giờ định cư ở cách một nửa vòng trái đất, có còn nhớ đến những đồi sim?
Trời hành cơn lụt mỗi năm
Miền Trung, mùa hè thì hạn hán, nắng gió như lửa táp, ruộng đồng nứt nẻ, cây cối khô cằn. Hết mùa hạn, lại đến mùa lũ lụt. Khi những cơn lụt ào ạt đổ về các vùng quê miền Trung thì cũng là lúc người nông dân rơi vào cảnh tay trắng. Mọi thứ từ hoa màu, nhà cửa, đồ đạc bị nhấn chìm trong dòng nước hung bạo. Quảng Trị ở vùng eo của dải đất miền Trung nên cũng không nằm ngoại lệ. Có lời ca cứ mãi da diết ở mảnh đất này: Quê hương em nghèo lắm ai ơi / Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn / Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm… (nhạc sĩ Phạm Đình Chương). Miền Trung nước ngập trắng trời / Thiên tai lụt lội than ôi khó lường (ca dao).
Ở quê tôi, mỗi năm thường có ba trận lụt tràn đồng là lụt tháng tư, lụt tháng bảy và lụt tháng mười âm lịch. Lũ lụt là việc của thiên nhiên, con người phải chống chọi và tìm cách mưu sinh trong mùa lụt. Trước tiên là phải biết “đọc vị” thời tiết: Mống(3) dài trời lụt / Mống cụt trời mưa; Cóc nghiến răng, trời đang nắng thì mưa (tục ngữ). Nắng đang hồi gay gắt, cây cỏ xác xơ vì thiếu nước. Người cùng vạn vật đều chờ đợi trận mưa lớn đầu mùa tháng tư, có thể ngập tràn cả cánh đồng. Đây là trận mưa mà âm lịch gọi là tiểu mãn. Có năm, đây là cơn lụt tiểu mãn “ghé thăm”. Mưa có thể bắt đầu buổi sáng hoặc buổi chiều, kéo dài suốt đêm cho đến sáng hôm sau thì nước đã lai láng khắp nơi. Tiếng ếch nhái rền vang ngoài đồng, hát bản đồng ca mừng thần mưa đem nước xuống cho ruộng đồng. Ngày mới lớn, đây là thời điểm chúng tôi đi bắt ốc bươu và bắt ếch. Ban ngày, ở các thửa ruộng đang khô hạn vừa no nước, ốc bươu từ dưới đất chui lên nhiều vô kể; với một cái oi đeo ở lưng hay với chiếc bao cát, những đứa trẻ như chúng tôi cứ việc lội ruộng và nhặt ốc cho đến lúc nào đầy mới thôi. Ốc bươu mùa mưa tiểu mãn thịt ngọt, béo ngậy và rất ngon. Ban đêm, chúng tôi cầm nơm hoặc vợt, với bó đuốc cháy rừng rực (sau này dùng đèn pin) đi soi ếch rặp. Trận mưa giải hạn, trên những thửa ruộng nước như mùa xuân, từng cặp đôi ếch đang hứng tình giao hoan; lúc đó họa chăng có trời sập thì chúng mới nhận ra! Cứ việc úp vợt hoặc úp nơm mà bắt. Món “gà đồng” trong mùa mưa tiểu mãn thì quá đỗi ngon ngọt, thịt săn và béo: Măng mai nấu với gà đồng / Chơi nhau một mẻ xem chồng về ai? (ca dao). Người lớn thì đua nhau đi cất rớ (cất vó) bắt cá. Bên các đầm, hói, chỗ có nước chảy, hàng chục người dàn hàng ngang cất rớ. Cá diếc, cá thát lát, cá rô, cá tràu (cá lóc), cá hẻn (cá trê) nhiều vô kể. Mỗi rớ cất được vài trăm con một buổi là chuyện thường. Có rớ còn cất được cá gáy (cá chép), cá chình nặng đến năm, bảy ký.

Minh họa của Mục Đồng
“Tháng bảy nước nhảy lên bờ”, lời người xưa nhắc nhở còn đó. Trời báo hiệu mưa bằng những ngọn gió bấc lành lạnh, ráng mây đỏ rực phía đằng đông, từng đụn mây đen kéo về nghịt trời. Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt (tục ngữ). Sấm chớp phía biển ầm ào dội vào. Đến chiều, dãy núi phía Trường Sơn chìm trong mây, báo hiệu mưa nguồn. Đến đêm, cơn mưa dội xuống mái tôn lạt rạt, lào rào. Mưa kéo dài nửa đêm đến sáng. Những chân ruộng thấp, nước ngập đến nửa thân lúa. Nước lên nhanh. Xóm làng đã nghe tiếng í ới báo tin chạy lụt, đến ở nhờ nhà bà con ở vùng đất cao. Nước bạc dập dềnh, ì oạp; nước đã vào nhà. Lội trong nước bạc lạnh ngắt, bụng đói chân run. Bao nhiêu chuột đồng, rắn rít, chồn cáo tập trung về những bụi cây dại trên rú. Đó là dịp làm ăn của những nhóm thợ săn với chó nhà để đi săn chồn. Nhưng đông vui nhất vẫn là đi bắt cá. Lụt tháng bảy, rất nhiều cá lội ngược khe, tìm về những trằm(4) cây để sinh sản, gọi là mùa rải cá. Cá rải rất dễ bắt, con nào bụng cũng đầy trứng, lội chậm chạp. Cá cấn, cá mại, cá mương, cá diếc, cá gáy. Dân làng dàn hàng ngang, mỗi người cầm một cái nơm hoặc rập để bắt cá. Bà con nơm cá dễ dàng, cả phụ nữ cũng bắt được những con cá gáy vài ba ký. Rồi có những người dùng lưới bén đi rải quanh ruộng lúa, khe nước, khi đi lần gỡ bắt được vô số cá rô, cá thát lát, cá tràu, cá hẻn… mắc lưới.
Cơn lụt dữ dằn nhất trong năm phải là cơn lụt tháng mười. Ông tha mà bà chẳng tha / Vẫn còn cơn lụt hăm ba tháng mười (ca dao). Cứ mấy ngày mưa như trút liên tiếp rồi trời hưng hửng nắng thì thế nào cũng có lụt. Nước nguồn đổ về dữ dội. Dòng sông ngày thường trông bé nhỏ, hiền hòa mà bây giờ nước dâng lên tràn bờ mênh mông. Màn nước đục ngầu chảy băng băng cuốn trôi theo mọi thứ rác rều, tấp vào các bụi cây, vườn tược. Nước tràn vô xóm làng. Những nhà ở nơi đất trũng đã í ới gọi nhau chạy lụt. Lụt tháng mười, người dân cầu trời đã lụt thì đừng có bão. Vì lụt vô ngâm nước nhà cửa, cây cối lung lay sẵn, nếu bão ập đến thì đổ sập hết, thật là tai họa. Mỗi năm mấy trận lụt bão là mấy lần người lớn lo mất ăn mất ngủ. “Ngày tháng mười chưa cười đã tối”, đêm như kéo dài ra. Những khi bão về đêm, cả nhà thức nghe tiếng cây ngã đổ trong vườn, tiếng tre nghiến vào nhau trèo trẹo, tiếng tàu chuối bị xé toang lẫn trong tiếng gió hú. Mấy anh em tôi còn nhỏ, nằm ôm chặt lấy nhau, bịt tai lại, quây chặt trong chăn mền. Cha mẹ nằm nghe tiếng gió hú, lại đoán nó đang đổi hướng nào, khi nào là “gió xóc làn”. Gió xóc làn rất ghê sợ, nó có thể xóc cả căn nhà quăng cái vèo như người ta xóc và quăng bó lúa vậy. Một đêm bão xong, sáng ra vườn tược xơ xác, mấy cây chuối không còn lá nào lành, khế rụng đầy gốc lẫn trong đám lá tre. Cha tôi và những người đàn ông khác băng vườn, vì đường sá bị cây ngã chắn lối chưa đi được, ghé nhà này nhà khác hỏi thăm. Những người đàn ông, trai tráng gọi nhau đi sửa lại những căn nhà đơn sơ bị đổ nghiêng hay lợp lại mái tranh, mái tôn ở những căn nhà trong xóm bị tốc mái.
Lụt, bão ở mảnh đất miền Trung là chuyện cơm bữa. Người dân miền Trung vẫn còn ấn tượng hãi hùng về những trận lụt lớn vào các năm Thìn: Nhâm Thìn (1952), Giáp Thìn (1964), Bính Thìn (1976) với bao đau thương, tang tóc: Em không về kịp nữa chị ơi/ Mưa trắng cả một trời Quảng Trị (thơ Tạ Nghi Lễ); Từ ngày bão lụt năm Thìn / Đến nay trôi nổi mới nhìn được em (ca dao). Ngay như tháng 10 năm 2020 (Canh Tý), cơn lụt lớn đã nhấn chìm bao làng quê trong biển nước. Ở làng tôi, chỉ các nhà cao tầng là còn có người trú ngụ, tất cả sơ tán ra mặt đường Xuyên Á che tạm lán sống qua ngày, chờ đợi nước rút. Bao đời nay vẫn thế, người dân quê tôi đã quen với chuyện lụt, bão và họ luôn có sự chuẩn bị chu đáo để đối phó. Trong khó khăn khắc nghiệt, con người phải vượt khó vươn lên. Ở Quảng Trị còn có một lời ca khác cũng thường được vút lên như một lời nhắc nhủ, can trường khi gặp gian nan khốn khó: Đừng than phận khó ai ơi / Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
.................
(1) Chạc: dây (tiếng địa phương).
(2) Rú: núi nhỏ có cây rậm. Từ điển tiếng Việt 2002 - Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng 2002, tr. 386.
(3) Mống: cầu vồng (tiếng địa phương).
(4) Trằm: vùng đầm lầy có nhiều cá, tôm (tiếng địa phương).