Tiểu sử và những năm tháng cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi
Ông sinh ngày 5 tháng 4 năm 1918, tuổi Mậu Ngọ, trong một gia đình nông dân, thợ thủ công, hiếu học và nền nếp. Quê hương ông soi bóng bên bờ sông Vĩnh Định trong xanh. Đó là làng Duân Kinh, xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, một miền quê có truyền thống cách mạng kiên cường, bất khuất và yêu nước. Song thân ông là cụ Trần Tước và cụ Lê Thị Cun. Cụ Trần Tước có năm người con trai: Hầu (Sâm), Khanh, Phán, Thừa, Thống.
Trong kháng chiến chống Pháp, các ông: Trần Sâm, Trần Khanh, Trần Phán, Trần Thừa đều tham gia quân đội. Ông Trần Phán gia nhập Trung đoàn 95, chiến đấu bị thương, đơn vị cho về gia đình dưỡng thương. Ngày 10 - 4 - 1947, giặc Pháp đi càn đã cho lính dã man xả súng bắn chết 115 người dân ở xóm Đò, làng Qui Thiện, huyện Hải Lăng, trong đó có hai anh em Trần Phán (18 tuổi) và Trần Thống (13 tuổi). Ông Trần Thừa làm Đại đội trưởng quân báo của Trung đoàn 95 đã anh dũng hy sinh ngày 1 - 2 - 1948 trong một trận chiến đấu quyết liệt với kẻ thù. Quá đau đớn khi bị mất ba người con trai trong vòng một năm, cụ bà Lê Thị Cun bị sụp bệnh và từ trần ngày 20 - 4 - 1948.
Năm 1951, khi Quảng Trị nằm trong vùng địch tạm chiếm, thân sinh của ông - cụ Trần Tước - không còn ai nương tựa, được tổ chức chuyển ra ở với ông (lúc này ông đang là Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4) đóng quân trong nhà ông Lê Nam Thắng (tức Nguyễn Đình Khiếng, lúc đó là Phó Tư lệnh Liên khu 4), tại xã Thanh Tường, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Tại đây, năm 1953, cụ Trần Tước từ trần. Lúc này, ông Trần Sâm đã chuyển ra công tác tại Bộ Tổng Tham mưu trên chiến khu Việt Bắc không thể về được. Gia đình ông Lê Nam Thắng và bà con địa phương đã giúp lo hậu sự cho cụ. Ngót 40 năm sau, tháng 4 năm 1991, ông Trần Sâm cùng cậu Trần Hùng và tôi vào Nghệ An cất bốc đưa hài cốt của cụ Trần Tước về an táng tại quê nhà.
Thời trẻ, Thượng tướng Trần Sâm học tiểu học ở làng Duân Kinh, trường phủ, huyện Triệu Phong rồi Trường Kỹ nghệ thực hành (còn gọi là Trường Bách nghệ) ở Huế. Ông là người ham học, lấy tự học làm chính. Trong lý lịch của ông ghi trình độ văn hóa chưa hết bậc trung học. Nhưng trên thực tế, bằng con đường tự học, ông có kiến thức khá sâu trên nhiều lĩnh vực. Về ngoại ngữ, ngoài tiếng Pháp học được khi còn là học sinh, sau này trong công việc ông còn tự học biết thêm tiếng Nga, tiếng Hán. Với ông, làm bất cứ việc gì, đều phải nghiên cứu học tập.
Sự học tại trường của ông có thêm một lần nữa. Đó là năm 1960, ông cùng các ông: Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Trần Văn Quang, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đồng Sĩ Nguyên, Cao Văn Khánh, Trần Độ, Nguyễn Quyết, Nguyễn Đôn, Lê Trọng Nghĩa, Thanh Quảng… tham dự lớp thứ nhất “Khóa đặc biệt” dành riêng cho cán bộ chỉ huy cấp chiến lược tại Học viện Bộ Tổng Tham mưu quân đội Liên Xô. Thời gian học tập nghiên cứu là 6 tháng.
Là một thanh niên giác ngộ cách mạng từ rất sớm trong phong trào học sinh, năm 20 tuổi, ông được kết nạp vào Đảng, làm giao liên bí mật vận chuyển tài liệu và đưa đón cán bộ của Đảng trên tuyến đường sắt từ miền Trung vào Sài Gòn. Năm 1939, do có người cùng hoạt động phản bội khai báo, nên ông bị địch bắt tra tấn, thậm chí treo lên xà nhà hành hạ dã man nhưng ông một lòng trung kiên, chí cốt, không khuất phục.
Chính quyền thực dân xử án ông tại Nha Trang, lúc ấy ông mới 21 tuổi. Đứng trước vành móng ngựa, ông đã dõng dạc tố cáo sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân đế quốc, đanh thép tuyên bố quyết tâm chí hướng làm cách mạng của một người cộng sản. Tòa án thực dân kết án ông năm năm tù giam và đưa đi lưu đày ở nhà lao Buôn Ma Thuột.
Ông thường kể, trong nhà tù đế quốc, chi bộ Đảng vẫn tranh thủ mọi điều kiện tổ chức học tập. Người giảng về lý luận chính trị là ông Hồ Tùng Mậu (quê Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An) - cán bộ cựu trào, trung kiên, xuất sắc của Đảng. Người dạy về quân sự và võ thuật là ông Trương Văn Lĩnh (quê Nghi Phương, Nghi Lộc, Nghệ An) - người đã từng tốt nghiệp Trường võ bị Hoàng Phố (Trung Quốc), là đảng viên Đảng ta đồng thời là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, hoạt động trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, giữ chức Cảnh sát trưởng Quảng Châu, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch phát hiện bắt trao cho thực dân Pháp đưa về Việt Nam giam giữ.
Năm 1943, thượng tướng Trần Sâm được mãn hạn tù. Ra tù nhưng ông vẫn bị quản thúc ở quê nhà. Sau một thời gian tìm bắt liên lạc, ông lại bí mật tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Kiến thức và kinh nghiệm học được trong tù đã giúp ông rất nhiều điều trong vận động quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng ở địa phương.
Năm 1945, ông tham gia lãnh đạo giành chính quyền ở tỉnh Quảng Trị. Khi tỉnh Quảng Trị giành được chính quyền, Ủy ban kháng chiến tỉnh thành lập, do ông Trần Hữu Dực làm Chủ tịch, ông Đặng Thí làm Phó chủ tịch, ông Trần Sâm được cử làm Ủy viên. Bố mẹ đặt tên ông là Trần Hầu. Thời kỳ hoạt động cách mạng trước năm 1945, ông lấy tên là Trần Bá, Trần Sam. Năm 1945, khi tham gia Ủy ban kháng chiến tỉnh Quảng Trị có hai người tên Sam: Nguyễn Bá Sam và Trần Sam. Để thuận tiện trong giao tiếp, tổ chức đề nghị ông thêm dấu đổi chữ “a”, thành chữ “â” thành Sâm. Và danh xưng Trần Sâm gắn với ông đến trọn đời.
Ngày 23 - 8 - 1945, tại Quảng Trị, Chi đội Giải phóng quân Thiện Thuật thành lập, sau đó đổi tên thành Trung đoàn 95. Đầu năm 1946, ông được giao giữ chức Chính ủy Trung đoàn cùng ông Hùng Việt (tức Đinh Huy Phan), Trung đoàn trưởng chỉ huy chiến đấu bảo vệ Quảng Trị.
Ngày 25 - 1 - 1947, quân Pháp ào ạt đánh chiếm đèo Vân Thủy rồi tràn vào chiếm vùng Cùa. Trước lực lượng vượt trội của quân Pháp, bộ đội ta với trang bị vũ khí thô sơ, lại chưa quen trận mạc, Tiểu đoàn 14 Trung đoàn 95 đã bỏ Cùa chạy về phía sau. Trung đoàn trưởng Hùng Việt đùng đùng nổi giận, lệnh cho cán bộ từ Trung đội trưởng đến Tiểu đoàn trưởng xếp hàng trước sân vận động và lăm lăm khẩu súng lục trong tay, tuyên bố sẽ bắn những cán bộ chỉ huy vô kỷ luật, nhát gan, dẫn quân chạy địch. Lập tức, Chính ủy Trần Sâm ra trước hàng quân, nói to như ra lệnh: “Đồng chí Hùng Việt không được làm thế! Khuyết điểm của cán bộ, tổ chức sẽ tùy mức độ mà kỷ luật với từng người. Đồng chí cho anh em về tổ chức lại bộ đội. Tôi và đồng chí cùng vào Cùa đánh địch”. Nghe ông Trần Sâm nói tổ chức sẽ kỷ luật, ông Hùng Việt hạ cơn nóng cho súng lục vào bao, nói: “Hôm nay, may có Chính ủy Trần Sâm, không thì các anh ăn đạn tôi rồi đấy. Tất cả về tổ chức bộ đội chuẩn bị đánh chiếm lại Cùa”.
Năm 1948, cấp trên điều động ông vào Thừa Thiên giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101, tham gia Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên. Trên cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101, ông đã trực tiếp chỉ huy chiến đấu nhiều trận. Đặc biệt là trận Hội Mít Lăng Cô, diễn ra ngày 12 - 1 - 1949, do ông trực tiếp chỉ huy phục kích tiêu diệt gọn cả đoàn tàu địch, bắt tù binh, thu vũ khí. Trận đánh đó có sức cổ vũ mạnh mẽ quân dân toàn Liên khu 4. Sau này, được Từ điển Quân sự Việt Nam xếp vào những trận đánh tiêu biểu trong thời kỳ chống Pháp.
Tháng 10 - 1949, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Mặt trận Bình Trị Thiên - Trung Lào do ông Hà Văn Lâu làm Tư lệnh, ông Trần Quý Hai làm Chính ủy và ông Trần Sâm làm Phó Tư lệnh.
Tháng 12 năm 1950, khi mới 32 tuổi, ông được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm 1953, cấp trên điều động ông lên Bộ Tổng Tham mưu, lúc này đang ở chiến khu Việt Bắc, giữ chức Cục trưởng Cục Quân lực. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Cục trưởng Quân lực kiêm Trưởng ban Quân lực mặt trận, trong Sở Chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Năm 1958 ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định phong quân hàm Thiếu tướng. Năm 1960, ông được Nhà nước bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ năm 1963 đến 1965, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng, kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Khi Bộ Quốc phòng thành lập Cục Nghiên cứu kỹ thuật quân sự (sau đó đổi tên là Viện Kỹ thuật quân sự, và hiện nay là Viện Khoa học & Công nghệ quân sự), ông được giao kiêm Cục trưởng.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông đã nhiều lần tham gia Đoàn Chính phủ ta đi Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em ký kết Hiệp định viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự. Năm 1974, ông được Chủ tịch nước ký quyết định thăng quân hàm Trung tướng. Từ năm 1976 đến năm 1982, ông được Trung ương điều động giữ chức Bộ trưởng Bộ Vật tư. Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) ông được bầu vào BCH Trung ương. Cuối năm 1982, ông trở lại quân đội với cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. Đến năm 1986, ông được thăng quân hàm Thượng tướng.
Một cán bộ liêm khiết – người cha, người ông nhân từ
Có thể nói, ông là mẫu cán bộ chí công vô tư. Ở bậc quân hàm cấp tướng mấy chục năm và hơn sáu năm làm Bộ trưởng Bộ Vật tư, cơ quan quản lý, phân phối một khối lượng lớn vật tư kỹ thuật của đất nước trong cơ chế bao cấp hiện vật. Nhưng gia đình ông sống bình dị như mọi gia đình cán bộ công nhân viên chức khác. Ngày ấy, khi tiền lương không đủ trang trải cuộc sống và nuôi năm người con ăn học, ông bà phải tăng gia sản xuất cải thiện cuộc sống. Hàng chục năm, trong nhà lợn nuôi xong lứa này mua tiếp lứa khác. Ngày bán lợn cả nhà được bữa ăn tươi hơn, lắm khi ông bà còn mời người thân quí đến dự. Phía sau nhà có mấy chuồng gà. Ngoài sân đặt chuồng chim bồ câu. Khoảnh đất trống trước nhà được cuốc xới cẩn thận biến thành mảnh vườn rộng rãi xinh xắn, trồng đủ các loại rau, khoai, mía và cây ăn quả tốt tươi. Có lần ông huy động con trai, con rể và mấy anh em bảo vệ, lái xe,công vụ tranh thủ những ngày nghỉ đào ao thả cá. Nhiều lần trước khi vào bệnh viện thăm người ốm, hoặc thăm gia đình liệt sỹ, thương binh, ông ra vườn cắt nải chuối, hái quả đu đủ, chùm nho, chùm vải thiều, túi hồng xiêm, sang hơn là một gói bột sắn dây do gia đình tự làm.
Nhiều lần đi công tác nước ngoài, khi về nước ông yêu cầu thư ký nộp lại cơ quan chính trị số tặng phẩm phía bạn tặng ông như đài bán dẫn, máy ảnh… để dùng chung cho đơn vị; trái cây, thuốc lá… làm quà biếu chia đều cho anh em cơ quan. Ông cho rằng, khi cán bộ ra nước ngoài mang tặng phẩm của quân đội để tặng lãnh đạo của bạn, thì khi nhận lại những tặng phẩm của bạn, đương nhiên đó không phải là của riêng mình.
Ở quân đội cũng như khi làm Bộ trưởng Bộ Vật tư, ông là người rất nghiêm khắc, thậm chí được cho là khó tính mỗi khi đơn vị tổng kết hội nghị tổ chức liên hoan. Có lần Hội nghị mừng công Bộ Vật tư, văn phòng đề nghị mở tiệc, ông chỉ chấp thuận mỗi đại biểu một bát phở tăng cường. Khi là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, có lần đến làm việc với Bộ Tư lệnh Không quân về qui hoạch sử dụng máy bay, vũ khí, trang bị kỹ thuật. Các anh trong Bộ Tư lệnh mời ông ở lại dùng cơm trưa. Ông nói, bà nhà tôi nấu rồi, tôi về ăn trưa cùng gia đình, đến chiều ta làm tiếp. Ông không bao giờ gây phiền phức cho người khác và nhất là không để lãng phí tốn kém công quỹ.
Năm 1982, chuyển công tác từ Bộ Vật tư trở lại Bộ Quốc phòng, ông lục lại mấy bộ quần áo quân phục sờn cũ hơn sáu năm không dùng đến, đem giặt giũ để mặc lại. Hằng ngày đi làm từ nhà riêng ở 30 phố Lý Nam Đế vào “Nhà Con Rồng”, ông đều dùng xe đạp. Hầu như không bao giờ ông dùng xe ô tô công vào việc riêng gia đình.
Với con cháu, ông là người nhân từ, tình cảm sâu sắc. Trong cư xử, ông luôn có thái độ trầm tĩnh, chú ý lắng nghe, khuyên bảo ân tình, gợi mở các phương án cho con cháu chủ động tự lựa chọn cách giải quyết. Trước mọi vấn đề, không bao giờ ông can thiệp, áp đặt vào việc riêng của người khác. Trường hợp con cháu có điều gì làm trái, ông đều nhẹ nhàng từ tốn bảo ban, phân tích thấu đáo; tuyệt nhiên không bao giờ to tiếng quát nạt. Con cái, dâu rể và các cháu nội ngoại trong gia đình thường xuyên nhận được ở ông sự chỉ bảo ân tình, bao dung, nhân từ. Mọi người đều tôn kính, thương yêu và quí trọng ông, luôn coi ông là chỗ dựa tinh thần.
Bà Lê Thị Lý vợ ông - một người đảm đang việc nhà và là cán bộ nhiệt tình hăng hái ở cơ quan. Khác với sự trầm tĩnh tinh tế của ông, tính cách bà bộc trực, có lúc nóng nảy. Hai ông bà là người cùng làng, quen biết nhau từ nhỏ, nên vợ nên chồng từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945. Khi khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Trị, ông là người tham gia lãnh đạo, còn bà là thanh nữ hăng hái tham gia lực lượng quần chúng tiến vào chiếm Dinh Tỉnh trưởng. Trọn đời ông bà sống bên nhau hạnh phúc trong tình nghĩa vợ chồng yêu thương nồng ấm, luôn chia sẻ, chăm chút cho nhau về mọi việc. Xuất thân từ thành phần lao động, bà cảm thông và rất thương người - nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn. Còn nhớ, mùa đông năm 1973, có lần vào một buổi chiều trên đường đi làm về, bà nhìn thấy hơn chục bộ đội căng ni lông trải chăn chiếu chuẩn bị ngủ qua đêm trên vỉa hè phố Lý Nam Đế. Bà đến hỏi, được biết đó là số anh em đang hành quân vào miền trong, bị lỡ chuyến tàu, dừng lại nghỉ chờ đi chuyến sáng mai. Thương anh em bộ đội phải ngủ trên vỉa hè giữa đêm đông giá rét, bà dẫn tất cả về nhà ở trong thành, bố trí chỗ nghỉ và nấu cơm cho ăn. Mấy anh em vệ binh, bảo vệ biết vậy là trái nguyên tắc qui định trong việc bảo đảm an ninh, nhưng không thể không chấp thuận theo cách của bà.
Trong gia đình, bà yêu cầu con cái phải chuyên cần học tập, lao động và không được bao giờ cậy thế đua đòi. Mặc dù lắm lúc rất nghiêm khắc, thậm chí là khá gay gắt, nhưng bà lại chăm lo cho con cháu từ việc nhỏ đến việc lớn. Bà thương con cháu với tấm lòng thơm thảo của một người mẹ, người bà.
Ông bà sinh được năm người con. Trần Thanh Liễu, Trần Hùng, Trần Thanh Lan, Trần Thanh Hòa, Trần Thanh Hà. Cả mấy chị em được thụ hưởng những tố chất của cha mẹ, lớn lên trong môi trường giáo dục vừa tình cảm vừa nghiêm khắc của gia đình. Vào đời, mỗi người một nghề nghiệp, một cương vị. Nhưng nét chung nhất của mọi người con trong gia đình là: sự nỗ lực phấn đấu trong học tập, làm việc, sự khiêm nhường, hòa đồng trong quan hệ và sự kiệm cần, thanh đạm trong đời sống sinh hoạt.
Hơn 90 năm ông đi qua cuộc đời, với một Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công Hạng Nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương, danh hiệu vinh dự khác được Đảng, Nhà nước và Nhân dân trao tặng… Ông xứng đáng là tấm gương lớn về nhân cách, trí tuệ, về tình thương yêu với tấm lòng bao dung nhân hậu lớn cho các thế hệ của đất nước hôm nay và mai sau học tập, noi theo.
N.M.Đ