Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 25/01/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Bút ký

Phóng sự ảnh

Người thị trấn

30/09/2024 lúc 16:52

Sau mấy ngày lưu lại Praha hàn huyên thù tạc, tôi theo Trần Phong về Trécké Budovítse thủ phủ của Nam Tiệp. Ngồi trong xe Phong vừa cầm lái vừa hào hứng chuyện trò, với anh đã nói là phải hào hứng, không hào hứng thì nói làm gì. Cho nên anh mới có tên là Phong gió, là nói thao thao như gió vậy. Cũng có người gọi anh là Phong Hà vì cô vợ yêu của anh tên là Hà. Phong Hà và Hà Phong gặp nhau ở thành phố này khi hai người còn cùng làm thợ trong một nhà máy. Bây giờ họ đã có hai cháu, Thu Huyền là sinh viên luật năm thứ ba, còn Hoàng Nam vừa vào lớp một niên học này. Họ cũng đã mua được một ngôi nhà hai tầng khiêm tốn nằm ở đầu phố, nấp dưới bóng một cây óc chó đại thụ, cây óc chó là một cây lành mang lại nhiều may mắn cho những ai sống gần nó.
Lâu ngày mới gặp lại nhau tôi thấy Phong như già dặn lên nhiều, thời gian làm cho gương mặt trẻ trung điển trai ngày nào không còn, giờ đã sang tuổi năm mươi thì nó bắt buộc phải nhào nặn anh thành người đàn ông ở độ tuổi ấy, cho dù vẫn còn đang rất phong độ. Vầng trán giô cao hơn, tóc thưa hơn, đuôi mắt đã thấy xuất hiện nhiều nếp nhăn, một bộ ria mép với những sợi cứng như thép tua tủa trên gương mặt đen thó, mới gặp dễ tưởng anh là người Nam đảo. Nhưng anh đích thị lại là người Việt, một người Việt gốc Nam Định lớn lên ở phố thợ Yên Viên giáp sông Đuống.
Phong nói, nước Tiệp có sức hấp dẫn riêng của mình, nó là điểm đến của du lịch quốc tế, rất nhiều người về rồi còn quay lại, có người mang theo cả vợ con xin được định cư.
Có lẽ ngày mai mình sẽ lên thăm một lâu đài được liệt vào hạng lớn nhất, kề ngay đây thôi, rồi chiều về ta tạt vào buffet của hãng bia Búdva làm một vài vại đã được ủ dưới hầm sâu, đây là thứ bia thượng hạng có thương hiệu. Ai đến đây mà chẳng ao ước được ngồi trong quán đó chụp một tấm ảnh mang về khoe với vợ con bè bạn.
Tôi kêu lên, mấy hôm nay đến đâu cũng bia rượu, sợ lắm rồi. Anh muốn chú bố trí cho anh đến chỗ nào yên ắng để còn kịp nghĩ ngợi. Phong gật đầu dễ dàng, có thiếu gì chỗ yên ắng, chiều em sẽ gọi điện cho kỹ sư Trần Bình lên đón anh về dưới gia đình hắn, anh cũng nên hiểu thêm về đời sống thị trấn. Chiều hôm ấy Trần Bình phóng xe đem theo cả bà vợ trẻ và hai đứa con lên nhà Phong ăn cơm rồi kéo tôi cùng về sống ít ngày ở Visibrốt.

...
 

Sakura rực rỡ

30/09/2024 lúc 16:52

Khi còn là học sinh cấp ba Vĩnh Linh Quảng Trị, tôi đã được biết về truyền thuyết Sakura:
....
 

Xuyên Á

30/09/2024 lúc 16:52

“Một cửa hai nhà”
Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo- Đen sa vẳn nằm trên đỉnh Trường Sơn, nhìn về mái đông là đất Việt, ngoảnh sang bên tây là nước Lào. Nơi đây từng thấm máu bao người con yêu Lào - Việt và ghi dấu những chiến công oai hùng của quân dân hai nước trên chiến trường đường Chín - Nam Lào.
Ngày nay, Lao Bảo - Đen-sa-vẳn trở thành một cánh cửa lớn trên hành lang kinh tế Đông Tây, là niềm tự hào và là biểu tượng của tình hữu nghị đặc biệt giữa nhân dân Việt - Lào mà trước tiên là mối tình keo sơn giữa đồng bào hai tỉnh kết nghĩa Quảng Trị - Sa-vẳn-na-khệt. Cán bộ, chiến sĩ Biên phòng, Hải quan thường ví nơi này là “một cửa, hai nhà”.
Mỗi bận đưa tiễn liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam tại Lào về nước, nhiều bà mẹ Lào lại ra tận cột mốc biên giới, nghẹn ngào khóc: “Tà hán (bộ đội) Việt ơi, con về nhé!” Dù đã nằm xuống, những người con Việt ấy từ lâu đã trở thành ruột thịt của bà con các bộ tộc Lào. Tình cảm từ những năm kháng chiến mãi mãi in đậm trong ký ức nhân dân ở hai mái Trường Sơn, để rồi hôm nay trong công cuộc dựng xây đất nước, người Việt, người Lào vẫn không quên sẻ chia những đắng cay, ngọt bùi...
Hiếm có nghĩa tình nào như nghĩa tình Lào Việt, “sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Không chỉ là hữu nghị giữa hai Đảng, hai nhà nước từ Trung ương xuống tỉnh, huyện đến tận cơ sở mà trong từng cảnh đời đều có mối thâm giao. Có nghĩa tình nào hơn khi nửa đêm bên bản Lào có người ốm nặng, đèn bản Việt lại chong lên, rồi những ngày giáp hạt, những kỳ thiên tai người Lào thiếu ăn, thiếu mặc, người Việt sẻ áo, nhường cơm?...
Quảng Trị là tỉnh nghèo, nhưng với bạn Lào ở Sa-vẳn-na-khệt kết nghĩa Đảng bộ và chính quyền địa phương xác định rõ trách nhiệm của người anh em tốt. Chủ trương của tỉnh là tất các các ngành ở địa phương đều tổ chức kết nghĩa với đồng ngành phía bạn, từ các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp đến các tổ chức đoàn thể quần chúng... với những nội dung thiết thực nhất. Bắt đầu là cuộc chiến chống đói nghèo.
       Cũng như nhiều vùng đồng bào dân tộc bên Việt, bà con Lào dọc biên giới vẫn tồn tại tập quán lạc hậu trong sản xuất và sinh hoạt. Với kinh nghiệm của mình, tỉnh Quảng Trị đã giúp áp dụng những mô hình sản xuất phù hợp với từng vùng đất và trình độ, tập quán canh tác phía bạn. Bởi vậy những vườn sắn nguyên liệu cho nhà máy chế biến ở Sê Pôn đã mọc lên nhờ nỗ lực của ngành nông nghiệp và Công ty Thương mại Quảng Trị. Rồi đột phá mở ra vùng chuyên canh cao su trên năm ngàn ha cũng bắt đầu hình thành ở Savẳnnakhệt bằng nguồn lực của Công ty Cao su Quảng Trị. Nhân dân các huyện Hướng Hoá, Đakrông đã quyên góp hàng ngàn con lợn giống, hàng vạn cây giống để tặng bà con ở các huyện Sê Pôn, Tù Muồi, Mường Noòng để phát triển kinh tế gia đình, góp phần xoá đói, giảm nghèo cho hàng ngàn hộ. Điện lưới quốc gia Việt cũng đã toả sáng các trung tâm dân cư biên giới của Lào với mỗi tháng trên 600 ngàn KWh.
      ...
 
 

Một đêm ở vùng tuyến lửa

30/09/2024 lúc 16:52

Vào bộ đội tôi được biên chế vào C2 D4 E336 F308b. Đây là đơn vị tăng cường, hầu hết tân binh tuyển ở đồng bằng Bắc bộ và một số tỉnh lân cận. Sau ba tháng luyện tập khẩn trương, ngày càng tăng nặng, vòng vèo hành quân từ Thái Bình ra Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, sư đoàn hạ trại. Chính  trị viên đại đội nói với chúng tôi: Toàn đơn vị được nghỉ phép 7 ngày, phải tập trung đúng ngày giờ để hành quân làm nhiệm vụ mới. Chúng tôi hiểu rằng sau đợt nghỉ phép này toàn đơn vị sẽ vào Nam chiến đấu.
...
 

Ngày 11 tháng 11 năm ấy

30/09/2024 lúc 16:52

Quốc lộ 1 đi từ Bắc vô, qua hết Lệ Thuỷ là vào đất Vĩnh Linh. Từ đó chạy ô tô chừng hơn chục cây số nữa là đến chân cầu Hiền Lương. Đó, Vĩnh Linh có chừng đó đường đất. Bên tay trái là các xã đất cát, đất đỏ Ba zan, thứ chất đất làm miền quê phía bên này trù phú cây trái, chạy ra sát biển. Còn bên tay phải Quốc lộ 1 là các xã đất đồng và đồi, chạy dài lên các xã miền núi cho tới sát biên giới Việt Lào. Vĩnh Linh giới hạn ở phía Nam là con sông Bến Hải, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là biển. Một vùng đất có diện tích vẻn vẹn có 620 cây số vuông. Từ biển lên biên giới trên dưới n¨m chục cây số. Con đường sắt Thống nhất đi qua Vĩnh Linh, chỉ qua bốn xã từ bắc vô là: Vĩnh Chấp - Vĩnh Thuỷ - Vĩnh Lâm - Vĩnh Sơn. Đã có một thời ba chú bé thiếu niên người Vĩnh Thuỷ được cả nước biết đến nhờ hành động dũng cảm chạy dọc đường tàu để báo hiệu cho một chuyến tàu khỏi bị nguy hiểm khi các em phát hiện ra đường ray bị hỏng.
Vĩnh Thuỷ là một xã vùng bán sơn địa: đất đồng, đồi và rừng. Cánh đồng Lâm -Sơn- Thuỷ rộng lớn là vựa cơm của ba xã Vĩnh Lâm (phía Đông cánh đồng), Vĩnh Sơn (phía Nam) và Vĩnh Thuỷ (phía Bắc và phía Tây). Đất Vĩnh Thuỷ bắt đầu từ bến đò Phúc Lâm, chạy dọc theo con sông Sa Lung chừng n¨m cây số là các thôn Lại Xá, Lại Đức, Xóm Thọ, Bến Tranh, sau lên thôn Linh Hải - một thôn ở điểm phía tây bắc của xã. Từ Lại Đức rẽ theo hướng nam, đi qua con đồi có tên là Bảy Tư, là các thôn Thuỷ Ba Đông (còn gọi là xóm Đông), Xóm Ga, Thuỷ Ba Tây, Xóm Cồn, Thuỷ Ba Hạ, cũng chừng năm cây số. Từ các thôn nói trên ®ất Vĩnh Thuỷ kéo dài về hướng tây là đất đồi, phủ đầy bây giờ là rừng cao su và các cây lấy gỗ. Trước đây nổi tiếng với cái tên chiến khu Thuỷ Ba, với câu chuyện truyền miệng về bắt cọp lừng danh một thời.
Điểm cao nhất của vùng đất này là đồi Bảy Tư, có độ cao so với mặt nước biển là 74 mét. Trong lúc đó vùng đất đỏ Bazan, có độ cao là 90 mét. Vì thế đứng trên đỉnh 74 không thể nhìn thấy biển. Nhưng đứng ở đỉnh 74 có thể nhìn thấy Cồn Tiên, Dốc Miếu ở bên kia bờ sông Bến Hải, và dãy cây cối tre dừa um tùm dọc con sông này.
Vĩnh Thuỷ cũng như các xã khác trên đất Vĩnh Linh đã nếm trải cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ từ ngày 17 tháng 2 năm 1965. Cuối 1965, máy bay Mỹ không chỉ bắn phá về ban ngày mà bắt đầu bắn phá vào cả ban đêm. Đầu và giữa năm 1966, chiến tranh bắt đầu ác liệt. Người dân Vĩnh Linh đã dỡ nhà để xây hầm chữ A kiên cố dưới lòng đất. Mọi sinh hoạt ăn, ở của người dân, học hành của học trò đều đưa dần xuống dưới mặt đất, để tồn tại. Thị trấn Hồ Xá lúc đó hầu như ngày nào cũng có bom. Đảo Cồn Cỏ, một hòn đảo gần 4 cây số vuông, nằm giữa biển khơi, chịu sóng chịu gió, chịu bom đạn hết sức ác liệt. Hễ máy bay đánh phá trong đất liền trªn kh¾p miÒn B¾c, vì nhiều lý do nào đó còn bom đạn chưa kịp trút hết là chúng bay qua Cồn Cỏ ghé vào trút nốt. Vĩnh Linh có cái tên đất lửa từ đó. Lửa đã cháy, đạn bom đã cày xới mảnh đất này không chỉ ngày một ngày hai mà là t¸m năm trời, suốt ngày suốt đêm chịu đạn pháo, chịu các loại bom, chịu cả chất độc màu da cam.
Bom có “bom bổ nhào”: tức là máy bay đến vần về trên mục tiêu, bổ nhào xuống và dội bom. Bom “toạ độ” là loại bom được máy bay bay ở tầm cao hàng ngàn mét, xác định toạ độ của mục tiêu ở dưới đất rồi thả xuống. Máy bay Mỹ bay thành tốp có khi hai hay ba chiếc. Chỉ nghe ù ù của tiếng máy bay trên tầng không, và nghe tiếng bom rơi rít. Nếu nghe được thế, thì có nghĩa là bom rơi một nơi nào đó, không phải xuống đầu mình. Còn nếu chỗ mình đứng là toạ độ đánh bom, thì không nghe gì trước đó cả. Đã nghe nổ, thì bom đã nổ bên mình, xung quanh sát mình rồi. Nguy hiểm của loại hình thả bom này là ở chỗ đó. Không lường trước được, và vì thế khó mà tránh kịp.
Bom rải thảm do pháo đài bay B-52 rải xuống. Một cái thảm được trải xuống đất thường là do một tốp hai hay ba chiếc B-52 gây tội ác. Tuỳ theo diện rộng hẹp của mục tiêu mà Mỹ rải 2, 3 hay nhiều hơn số thảm. Hôm nào trời trong không mây, khi bom từ bụng máy bay rơi xuống, đứng dưới đất nhìn lên có thể thấy một dàn lấp loáng các hạt nhỏ li ti sa xuống và lớn dần lên khi hạ thấp độ cao. Và bùng bục nổ kế nhau liên tục, không có khoảng cách giữa các tiếng nổ. Bầu trời trên vùng đất được chiếc thảm thần chết ấy trải ra là đen như đêm tối, vì khói của bom che lấp mất ánh sáng mặt trời, kể cả vào lúc giữa trưa trời quang mây tạnh. Ngồi dưới hầm ta có cảm giác như ngồi trong một chiếc xuồng hẹp nhỏ, nổi trên biển. Tai ù không có gì ngoài ùng ục. Ngực như bị nén lại. Khi cuộc ném bom kết thúc, chui ra khỏi hầm thì một quang cảnh làm ta bàng hoàng: hố bom kề hố bom, mà hố nào cũng to, sâu. Đất tung lên trời khi rơi xuống cũng tạo ra những hố đủ cho một người chui nấp ở dưới nó! Cây cối không còn gì sót lại. Lá bay xao xác trong không trung. Khói thuốc bom khét lẹt. Năm 1967, B52 đã rải thảm xuống Vĩnh Thủy.
Bom thả ban ngày, ban đêm, lúc chập choạng tối, vào giờ ăn cơm, bất cứ lúc nào. Ban đêm nếu là máy bay bổ nhào thì trước đó, máy bay thả pháo sáng ra. Nghe “bụp” một cái trên trời, biết ngay là pháo sáng đã phóng ra. Pháo sáng được một chiếc dù nhỏ nâng đỡ, lơ lững treo trên không trung của mục tiêu. Thông thường mỗi máy bay thả chừng hai cái pháo sáng. Pháo cháy sáng loá, soi rõ cả từng ngọn cỏ, lá cây trên mặt đất. Có thể nhìn rõ cả con kiến bò trên gân lá cây.
Bom thì có đủ loại. Theo trọng lượng, người Vĩnh Linh phân biệt nôm na là bom tạ, bom tấn. Về loại bom Mỹ thả ở Việt Nam thì có nhiều như: bom bi, bom sáng, bom chỉ thị mục tiêu, bom chống hầm, bom nổ chậm, bom sát thương, bom phá...Trong hơn t¸m năm đánh phá, Mỹ đã ném xuống miền Bắc Việt Nam hơn 9 triệu tấn bom (gấp hơn 1,5 lần số bom Mỹ ném xuống Triều Tiên, gấp 5,7 lần số bom Mỹ ném xuống Nhật Bản trong thế chiến thứ hai. Trung bình là 6 tấn bom/km2 và 45,5 kg/đầu người). Ở Vĩnh Linh, không biết có ai thống kê các con số tương tự hay không. Nhưng khi chiến tranh qua rồi, người ta thử tìm một mảnh vỡ của một viên gạch nung từ đất sét, cũng không tìm thấy. Gạch đã vỡ vụn vì bom, đạn cày đi cày lại không biết bao lần!.
Một quả bom sát thương sau khi nổ, nó để lại một cái hố không sâu, không to. Một cái hố khét lẹt mùi thuốc bom đã cháy, ám khói lẫn cả vào đất. Chung quanh cây cối hoặc cháy sém, hoặc bị xé nát tả tơi. Xa hơn một chút là cái cảnh cây tạt rạp ra tứ phía. Những cây xa hơn thì găm chi chít các mảnh to nhỏ, răng cưa có, nhọn sắc có. Cành, gốc bị băm bị chặt, ứa nhựa.
Những quả bom tấn thường được thả từ những máy bay ném bom hạng nặng ném theo toạ độ, hoặc rải thảm. Chúng để lại những cái hố vừa to vừa sâu. Có nơi nước ngầm trào ra nước xanh ng¾t. Trẻ con chăn trâu, có thể bơi lặn trong đó như một cái hồ bơi!
Bom khoan, hay bom chống ngầm thì không để lại hố to. Ở những bãi cỏ bò, có bộ rễ rộng, bom khoan không để lại gì trên mặt đất. Đi qua chỗ có bom nhiều khi bị thọt thỏm xuống hố, mất tích, mà người trên mặt đất không biết đâu mà tìm!
Bom napalm - là loại bom sát thương tệ hại nhất. Napalm là tên lấy theo các chữ đầu của muối nhôm Naphthelic và axit Palmitic. Đấy là  loại chất lỏng bắt cháy được sử dụng trong chiến tranh. Thực ra, napalm là chất làm đặc trong các loại chất lỏng này, loại chất mà khi trộn với xăng sẽ thu được một dạng keo cháy. Chúng được cho thêm vào chất dễ bắt cháy để làm cho nó thành dạng keo. Napalm được sử dụng  là loại napalm-B, có thành phần chính là benzen và polysterene. Napalm được trộn với xăng theo các tỷ lệ nhất định để đạt được độ bắt dính. Khi được dùng trong bom, napalm nhanh chóng hút hết ôxy không khí, đồng thời tạo ra một lượng lớn chất CO gây ngạt thở. Bom Napalm sử dụng ở Việt nam còn trộn thêm photpho trắng để làm nó cháy tốt hơn, cháy ngay cả ở dưới nước. Và chỉ một giọt là đủ, nó sẽ làm bỏng vào tận xương và gây tử vong bëi nhiễm độc phốt pho.
....

Bên dòng Sêbănghiêng

30/09/2024 lúc 16:52

Sêbănghiêng được sinh thành giữa đại ngàn Trường sơn hùng vĩ. Trước khi mang nước ngược sang đất Lào để nhập vào dòng sông mẹ Mê Kông, Sêbănghiêng đã kịp trao gửi dòng nước ngọt lành cho đầu nguồn Bến Hải, Rào Quán...rồi chia tay đất Việt. Giữa lòng Trường Sơn trên đất Việt, Sêbănghiêng như cô gái Vân Kiều sống đời sống phóng khoáng mà mãnh liệt cuộn chảy qua bao thác ghềnh được kiến tạo từ triệu năm đứt gãy địa chất. Chảy qua thung lũng Cù Bai để tưới tắm cho bao đời người đã trở thành huyền sử trong chiến tranh. Và bằng giọt phù sa được chắt chiu từ đá núi, Sêbănghiêng thay áo mới cho thung lũng Cù Bai bằng sắc non xanh của rừng cây, ruộng lúa. Dưới rừng cây, bên ruộng lúa, thanh âm cuộc sống yên bình no ấm được gọi về từ mái nhà sàn của đồng bào dân tộc Vân Kiều nằm tựa lưng vào bóng núi đang tỏa khói lam chiều.
....
 

Trọn đời duyên nợ với nhà nông

30/09/2024 lúc 16:52

Tôi nói đến một người mà suốt cuộc đời âm thầm với việc làm ăn để tạo dựng cuộc sống gia đình giàu có, góp phần đắc lực giúp nông dân có thêm năng lực vươn lên trong kinh tế. Nhiều người gọi anh là một tỷ phú suốt đời duyên nợ với nhà nông. Anh sinh ra trên miền quê sỏi đá Mỹ Lộc, xã Vĩnh Chấp, thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Mảnh đất khó nghèo khắc nghiệt từ bao đời đã bồi đắp cho anh một ý chí vững vàng, rèn luyện cho anh một suy nghĩ mạnh dạn, cương quyết và táo bạo. Cuộc đời anh cũng như bao bạn bè trang lứa cùng thời, đã từng làm ở cơ quan nhà nước, vì ốm đau nên phải ra về theo chế độ 176. Anh không đầu hàng số phận, vẫn quyết chí vươn lên, để bây giờ trở thành ông chủ của một doanh nghiệp có tên là: Công ty TNHH một thành viên Xuân Tư,  ở ngay tại địa bàn thị trấn Hồ Xá. Chủ doanh nghiệp Đại lý cấp I Trung ương này chính là anh Phạm Đăng Tư. Nhiều nông dân trong và ngoài huyện thân thiết với anh, coi anh là người tri kỷ vì nâng đỡ họ một cách vô tư không hề tính toán thiệt hơn. Là chủ doanh nghiệp, nhưng trông anh giống như một nông dân tất bật với việc nhà, với mọi người, lúc thì chạy xe con giao dịch công việc với các công ty ở Trung ương, ở các tỉnh bạn, lúc thì ngồi trên xe tải mang hàng đến cho khách kịp thời theo yêu cầu. Anh rất ít có thời gian nghỉ ngơi. Anh vẫn vui vẻ nói rằng: Gắn bó với nông dân rất mệt nhưng rất vui. Nhà nông quý anh vì khoảng cách giữa một ông chủ với nông dân hầu như không có. Nhiều khi giao hàng xong, họ mời ly rượu chúc mừng thì ông chủ vẫn không chối từ, hòa đồng vui vẻ như anh em một nhà.
       ...
 

Nhà văn Ngô Thảo trong mắt ... ai!

30/09/2024 lúc 16:52

Bây giờ thế hệ những bạn trẻ tuổi “teen” ở Quảng Trị chắc hỏi ông Ngô Thảo là ai chắc ít ai biết, nhưng những ai đã ở vào cái tuổi tứ thập trở lên, đã từng đam mê văn chương, sân khấu , đã qua một thời lửa đạn chiến tranh hẳn không thể không biết đến tên ông.
Nhưng có hề chi, nếu những thế hệ tuổi teen ấy không biết ông Ngô Thảo thì khi nhắc thế này hẳn sẽ nhận ra “tầm vóc” của ông: Công ty BHD-và hãng phim Việt- nơi đã sản xuất ra những bộ phim làm mưa làm gió trên các đài truyền hình mấy năm qua như Bỗng dưng muốn khóc (được chọn là phim truyền hình hay nhất năm 2009), các phim Cô gái xấu xí, Ngôi nhà hạnh phúc (phiên bản Việt)…
 

Ghi dọc đường xuân

30/09/2024 lúc 16:52

“Vậy là Đông Hà vào Xuân”, câu nói thốt ra từ đôi bạn trẻ trong đêm giao thừa tưng bừng pháo hoa giữa đất trời Đông Hà (Quảng Trị) tưởng xưa cũ như trái đất vậy mà hôm nay nghe thật rạo rực, thật mới. Mới, bởi vì đây là mùa xuân đầu tiên Đông Hà của tôi đón xuân với tư cách là một thành phố trẻ tràn đầy sức sống. Người ta nói, những cái đầu tiên thường ẩn chứa nhiều hy vọng. Và mùa xuân đầu tiên trên thành phố trẻ lại càng nhiều hy vọng hơn bội phần.
 
 

Đông Định - Chợ phiên, mảnh đất đời người

30/09/2024 lúc 16:52

 “…Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời
                                       (Truyện Kiều)
 
 
Mạ gọi điện cho hai vợ chồng tôi rằng “Mần chi thì mần, chủ nhật này cũng phải về làng dự lễ xóm miềng đón nhận danh hiệu “Làng văn hóa”....
 
 

Ta đã từng đói no

30/09/2024 lúc 16:52

Bây giờ đại đa số dân ta đã no ấm. Đông đảo người đang có nhu cầu ăn ngon và mặc đẹp. Chỉ mới hai mươi năm đổi mới và hòa nhập với thế giới người Việt Nam đã làm được điều kỳ diệu hàng ngàn năm trước không làm được
Cơm ăn và áo mặc là nhu cầu tối thiểu để con người tồn tại. Vậy mà hết thế hệ này đến thế hệ khác cha ông ta đã vật lộn đổ mồ hôi và đổ cả máu để được no ấm. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ cực kỳ quan tân vấn đề cơm áo, no ấm của dân. Nhiều lần, ở nhiều nơi khác nhau, Bác luôn có một mong ước là dân ta ai cũng được no ấm. Tự mình phấn đấu về mục địch đó, Bác Hồ căn dặn mọi tầng lớp cán bộ của Đảng phải luôn quan tâm tới cái ăn cái mặc của nhân dân.
                                            
Nói như trên không có nghĩa là bây giờ dân ta đã hoàn  toàn no đủ. Bằng chứng là tết Canh Dần vừa qua (2010) nhiều phóng sự của đài truyền hình Trung ương đã cho biết một số nơi dân đói. Chính phủ đã bỏ ra 36.000 tấn gạo để cứu trợ cho dân, để ít ra trong ba ngày tết không một người nào phải đói.
Việc nơi này, người này thừa ăn, nơi kia, người kia thiếu đói không có gì lạ vì di họa chiến tranh, thiên tai khắc nghiệt: Bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai khô bạc…vì hoàn cảnh gia đình neo đơn, bệnh tật và vì cả trình độ làm ăn, canh tác yếu kém.
 

Vừa trôi vừa nở

30/09/2024 lúc 16:52

Tôi, Nguyễn Văn Trị, Lê Đăng Châm và Thái Hoàng Nguyên ngồi cùng bàn thời trung học Nguyễn Hoàng tỉnh Quảng Trị. Lạc nhau từ năm 1972, mới tìm lại được mười năm lại đây.
Cách đây mấy năm, Nguyễn Văn Trị gọi điện báo vợ chồng Lê Đăng Châm gửi thiệp mời đám cưới cháu gái đầu Như Quý. Thấy cái thiệp để địa chỉ là thị trấn Long Xuyên, định gửi ít tiền mừng cháu thôi. Làm sao bỏ công việc đi hàng trăm cây số về đám cưới con gái bạn. Đi về mất ít nhất ba ngày. Đang lưỡng lự thì Trị gọi điện bảo, “Mi và tao phải đi. Châm cần quà cho cháu, nhưng cái nó cần hơn là tình bạn. Nó ở đó một mình... 

Đất nở hoa

30/09/2024 lúc 16:52

none

Dưới tán bàng vuông Cồn Cỏ

30/09/2024 lúc 16:52

none

Năm năm khai mở con đường

30/09/2024 lúc 16:52

NĂM NĂM KHAI MỞ CON ĐƯỜNG
  anh thi
 
Quảng Trị là tỉnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng.
Nếu chọn một góc nhìn cho tỏ tường, bao quát kiểu như Nguyễn Trãi từng ngồi thiền định trên núi Côn Lôn cưỡi mây để hiểu ra núi, lấy gió để hiểu ra cây thì rất dễ nhận thấy Quảng Trị là mảnh đất sinh ra để gánh lấy những vận hạn của lịch sử dân tộc giao phó. Xưa gọi địa linh, nay là đất thiêng vì đất này có những mốc son. Ba lần được Quảng Trị được chọn làm thủ phủ kinh đô trong ba cột mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Đó là năm 1558- 1626 với thủ phủ bàn đạp Dinh Cát Ái Tử, Chúa tiên Nguyễn Hoàng đã mở nghiệp khai phá xứ đàng trong. Đó là kinh đô kháng chiến Tân Sở (1885), nơi vua Hàm Nghi tuyên chiếu dấy nghĩa Cần Vương khởi đầu cho công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc. và đó là Cam Lộ, thủ phủ của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam vào những năm tháng cam go nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quảng Trị có ba con sông không phải là lớn lắm ở thắt ruột miền Trung đều buộc phải làm ranh giới chia cắt đất nước trong ba thời kỳ: Sông Hiếu chia cắt Việt- Chăm từ 1069- 1307; sông Hiền Lương đôi miền Nam- Bắc 1954- 1972; và sông Thạch Hãn chia cắt Nam- Bắc 1972- 1975...Nói như vậy để thấy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngót một phần tư thế kỷ, nơi đây như thể nghiễm nhiên đã trở thành chiến trường ác liệt nhất, quyết liệt nhất, đúng với khái niệm đụng đầu lịch sử. Mỗi tấc đất ở nơi chốn này thấm đẫm không biết là bao nhiêu máu xương của hàng vạn chiến sỹ, đồng bào Quảng Trị và những người con ưu tú trên mọi miền đất nước.
Chiến tranh đi qua, lưu lại trên đất Quảng Trị một hệ thống di tích chiến tranh cách mạng đồ sộ, độc đáo. Với 505 di tích danh thắng đã được kiểm kê đánh giá, thì đã có đến 436 di tích lịch sử chiến tranh cách mạng, trong đó nhiều di tích được xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt quan trọng. Trong khối di tích đồ sộ ấy rất dễ nhận ra một số di tích tiêu biểu, có giá trị đặc biệt hấp dẫn đối với hoạt động du lịch hồi tưởng hoài niệm đối với các chính khách, các nhà nghiên cứu lịch sử, Cựu chiến binh từ hai phía và khách du lịch như Làng hầm Vịnh Mốc, Cầu Hiền Lương – Đôi bờ sông Bến Hải, Hàng rào điện tử Mc.Namara, Bến Tắt – Khe Hó, Thành cổ Quảng Trị, Đường 9 – Khe Sanh, Sân bay Tà Cơn, Đảo Cồn Cỏ, Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, Trụ sở Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam và hai nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, Đường 9... Như đã nói, hệ thống di tích chiến tranh cách mạng ở Quảng Trị không những nhiều về số lượng mà còn đa dạng về loại hình và có nội dung ý nghĩa lịch sử to lớn; nó đã, đang và sẽ là tài sản tinh thần vô giá của cả nước vì những hàm nghĩa sâu sắc cả về tính dân tộc và thời đại chứa đựng trong mỗi di tích. Sau gần ba mươi lăm năm đất nước thống nhất, cùng với sự quan tâm hỗ trợ của TW và nỗ lực to lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Trị đã đạt được những thành tựu quan trọng về xây dựng phát triển KT-XH, an ninh, quốc phòng và đang trong tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới. Trong đó hoạt động du lịch đã có sự khởi sắc đi lên, góp phần tích cực trong việc phát triển KT-XH của tỉnh nhà, có thể nói là bắt đầu từ Quảng Trị khai mở con đường du lịch hồi tưởng dành riêng cho Quảng Trị. Đây là một chương trình đặc biệt xuất phát từ những nhu cầu nguyện vọng cấp thiết và ý tưởng nhân văn sâu sắc của các vị tướng lĩnh, sỹ quan, chiến sĩ, thanh niên xung phong, cựu chiến binh từng chiến đấu gắn bó với mảnh đất này. Con đường hay chương trình du lịch được  mang tên: “Hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội” .
 
                                            
 
Xuất phát từ ý tưởng nhân văn vừa nêu, năm năm qua lãnh đạo tỉnh Quảng Trị, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Du lịch đã tập trung chỉ đạo, đầu tư nhân lực vật lực thực hiện ý tưởng và nguyện vọng nói trên bằng những việc làm cụ thể rốt ráo. Tháng 7 năm 2005, UBND tỉnh phối hợp với Bộ Quốc phòng, Tổng cục Du lịch tổ chức thành công Hội thảo quốc gia về chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ . Ở Hội thảo này có 38 tham luận của các vị tướng lĩnh quân đội là nhân chứng lịch sử; các vị lãnh đạo TW và của Quảng Trị qua các thời kỳ; các nhà khoa học, các doanh nghiệp Du lịch, lữ hành...đã được trình bày. Sau Hội thảo đã tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động nhằm phát triển loại hình du lịch hoài niệm. Tháng 12 năm 2005, Công ty Du lịch và Xúc tiến Đầu tư thuộc Tổng cục Du lịch bảo vệ thành công đề tài khoa học cấp Bộ “Khai thác các giá trị Di tích chiến tranh cách mạng tại Quảng Trị phục vụ xây dựng chương trình du lịch Hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội”. Đề tài khoa học ứng dụng nói trên thêm một lần nữa khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở mở ra hướng mới khai thác các cụm di tích chiến tranh cách mạng để phát triển loại hình du lịch hoài niệm có ý nghĩa nhân văn, tâm linh sâu sắc này. Đề tài đã được nghiệm thu và chuyển giao cho các đơn vị Du lịch, lữ hành trong cả nước ứng dụng, góp phần tích cực vào việc phát triển sự nghiệp du lịch nói chung và loại hình du lịch hoài niệm ở Quảng Trị nói riêng. Tiếp đến tháng 7 năm 2006, UBND tỉnh tổ chức giới thiệu chương trình Du lịch HNCTX&ĐĐ tại thủ đô Hà Nội, thu hút trên 160 đại biểu các Bộ ban ngành ở TW, thủ đô Hà Nội và các doanh nghiệp Du lịch lữ hành cùng các tổ chức chính trị xã hội đến tham dự, tạo dựng môi trường tốt về xúc tiến đầu tư phát triển du lịch. Đặc biệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có thư chúc mừng, trong thư khẳng định: “Quảng Trị là một trong những chiến trường ác liệt nhất, hệ thống di tích cách mạng ở Quảng Trị rất đồ sộ và độc đáo, là tài sản qáy giá. Nhiệm vụ của các thế hệ người Việt Nam và Quảng Trị là phải giữ gìn, khai thác giá trị to lớn phục vụ phát triển KT-XH, đặc biệt là du lịch để phục vụ đời sống nhân dân”… Tiếp đó UBND tỉnh Quảng Trị tiếp tục giới thiệu chương trình này ở một số thành phố, tỉnh lân cận; phối hợp với VTV3 dựng phim, các cơ quan thông tin đại chúng TW và địa phương tuyên truyền quảng bá rộng rãi. Và khi tỉnh đã tổ chức công bố chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ tại thành cổ Quảng Trị thì đây là điểm nhấn quan trọng có tính chất khẳng định một thương hiệu du lịch mới được các hãng Lữ hành trong nước và quốc tế quan tâm hưởng ứng...
Đi đôi với các hoạt động nghiên cứu, hội thảo khoa học nhằm xây dựng thiết kế chương trình, tỉnh ta đã tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, xã hội có tác động tích cực thúc đẩy du hoài niệm phát triển. Một trong những hoạt động đầy tính khám phá sáng tạo là đã tổ chức sản xuất và truyền hình trực tiếp nhiều lễ hội cách mạng độc đáo gây xúc động mạnh mẽ đối với khán giả  trong nước, khu vực và thế giới, điển hình như Lễ hội Thống nhất Non Sông vào dịp 30/4, Lễ hội Huyền thoại Trường Sơn vào dịp 27/7, Lễ hội Khúc tráng ca về một dòng sông, Lễ hội Thả hoa trên dòng Thạch Hãn ... Việc phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam, đài Truyền hình Tp. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh tổ chức nối cầu truyền hình với một số tỉnh, thành phố trong các dịp lễ kỷ niệm và sự kiện quan trọng của quê hương đất nước đều có ý nghĩa tuyên truyền, quảng bá sâu rộng về hình ảnh mảnh đất và con người Quảng Trị nói chung và quảng bá cho chương trình du lịch hoài niệm nói riêng hết sức sinh động. Nói như nhà văn Xuân Đức, tổ chức lễ hội cách mạng là một cách thức vật thể hoá những giá trị phi vật thể chứa đựng trong mỗi di tích. Tại Hội nghị tổng kết Chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ, ông đã đưa ra nhiều dẫn dụ hết sức thuyết phục, chúng tôi chỉ dẫn ra đay một ví dụ. Thoạt đầu ông cho rằng, những “giá trị phi vật thể tồn tại bằng sự cảm nhận, tuyền tụng, giáo huấn, sự tôn vinh trong tâm thức hoặc ý thức của từng cộng đồng, bằng đạo đức xã hội hoặc là giáo lí của tôn giáo… Như vậy, muốn nhận thức và cảm nhận được giá trị văn hoá phi vật thể con người cần phải thường xuyên, liên tục được tiếp xúc, được giáo dục, được truyền bá và đủ thời gian để hiểu biết sâu sắc đầy đủ về nó. Nhưng đối với khách du lịch, thời gian để tiếp cận với các giá trị ấy rất ngắn, lại thường không phải ở một không gian trầm tĩnh để cảm nhận và suy ngẫm, không có điều kiện để được truyền bá, giáo huấn…Vậy, làm cách nào để khách hành hương trong một quãng thời gian ngắn có thể nhận thức được các giá trị phi vật thể của các di tích lịch sử cách mạng?”. Và đây chính là mấu chốt của vấn đề, vì tôi biết ông là một trong những nhà thiết kế, là tác giả và đạo diễn: “Ông cha đã có cách truyền bá rất sáng tạo là hình thành các hoạt động lễ hội trong không gian của ngày giỗ chạp hay lễ truyền thống. Trong các hoạt động lễ hội đó, người ta đã chuyển hoá những giá trị vô hình thành hình thức hoạt động hữu hình, chuyển từ phương thức truyền bá thông qua giáo dục ý thức thành phương pháp trực quan, cảm nhận trực tiếp, chuyển hoá phương pháp giác ngộ của cộng đồng từ nhận thức bền bỉ theo kiểu mưa dầm thấm đất thành sự rung động ngay lập tức, cảm nhận qua sự rung động tâm hồn… Đó chính là cách vật thể hoá những giá trị phi vật thể”. Và ông cũng đã đưa ra một dẫn chứng để thuyết minh cho cách làm này: “Di tích Đôi bờ Hiền Lương- Bến Hải là nơi chứng kiến nỗi đau chia cắt ròng rã 21 năm trời của dân tộc. Tuy nhiên, giá trị bất hủ của di tích này không phải là câu chuyện chia cắt. Du khách đến đây cần phải đọc được thông điệp sâu xa của di tích Đôi bờ Hiền Lương Bến Hải, đó là  khát vọng đoàn tụ, thống nhất của dân tộc Việt Nam. Đây chính là giá trị phi vật thể của di tích. Để hiểu rõ giá trị này có rất nhiều con đường, bằng văn thơ, bằng giáo dục lâu dài trong nhà trường, trên sách báo, trong các cuộc tọa đàm lịch sử hoặc hội thảo khoa học... Tuy nhiên, với khách du lịch, những người chỉ có thể dừng lại nơi này một ngày hoặc một buổi, thì các cách thức truyền bá nói trên sẽ rất bị hạn chế. Đó chính là lí do để một lễ hội cách mạng ra đời với tên gọi “Lễ hội thống nhất non sông”. Trong lần lễ hội thứ nhất, những tác giả của chương trình đã tổ chức mời hai đoàn khách từ cực nam (Cà Mau), cực bắc (Lạng Sơn) mang về hai nắm đất dâng lên Kỳ đài Hiền Lương. Lần Lễ hội thứ hai, lại mời hai đoàn cũng từ hai đầu Tổ quốc là Cao Bằng và Hậu Giang, mang theo hai bầu nước của hai nguồn sông tận cùng đất nước về hoà vào dòng nước sông Bến Hải… Những hình ảnh ấy đã tạo nên sự xúc động sâu xa đối với nhân dân và khách du lịch. Những nắm đất và bầu nước là vật thể, là thứ có thể nhìn thấy trước mắt, nhưng lại là sự ẩn dụ sâu xa của thông diệp lịch sử, là tất cả tinh thần, hồn vía của di tích. Đó chính là cách vật thể hoá những cái phi vật thể mà các hoạt động lễ hội tạo ra”. Cuối cùng thì ông cũng đã đi đến kết luận: “ Việc tạo ra những lễ hội Cách mạng ngay trên các di tích chính là cách làm tốt nhất để gọi cái phần hồn của di tích sống dậy. Nói một cách khác, hoạt động lễ hội là cách làm cho cái phần phi vật chất hiện hình lên, giúp cộng đồng hôm nay đặc biệt là thế hệ trẻ, thế hệ không được chứng kiến những sự tích ấy xẩy ra có thể “đọc” được những giá trị sâu sắc nhất, thiêng liêng nhất đang ẩn sâu trong các di tích lịch sử và cách mạng”...
Những gì chúng tôi vừa trình bày tóm tắt chỉ là một trong muôn mặt của ý tưởng các nhà thiết kế và công tác quảng bá, tuyên truyền cho chương trình du lịch hoài niệm. Tuy là lý thuyết, song những gì đã làm, đã kiểm chứng qua thực tiễn xác nhận một điều rằng đó là hướng đi đúng đắn.
 
   
Cha ông ta có dạy: Có thực mới vực được đạo. Vì vậy sẽ rất là thiếu sót nếu không kể ra đây những nổ lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các hoạt động bổ trợ khác. Mà ở lãnh địa này chỉ kiểm kê thôi cũng đã mất hàng trăm trang sách. Vậy chỉ còn cách điểm mặt nữa mà thôi!
Trước hết, bằng nguồn vốn từ chương trình mục tiêu Quốc gia tỉnh đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng xây dựng các tuyến đường du lịch từ Cửa Tùng đến địa đạo Vịnh Mốc; Đường quốc phòng dân sinh dọc biển Cửa Việt - Cửa Tùng; Cầu Cửa Tùng rồi đường Hồ Chí Minh huyền thoại (đoạn Khe Sanh - Sa Trầm - Tà Long); nâng cấp đường về nhà lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn và xây dựng công viên Lê Duẩn hàng chục tỷ đồng. Chính phủ, các Bộ ngành chức năng cũng đã quan tâm hơn đến việc đầu tư nâng cấp, phục chế, tôn tạo các di tích chiến tranh cách mạng ở Quảng Trị. Từ năm 2005 đến nay đã đầu tư gần 150  tỷ đồng cho các hạng mục quan trọng, trong đó ưu tiên đầu tư cụm di tích đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải 34,6 tỷ đồng; Thành cổ Quảng Trị giai đoạn II 40 tỷ đồng; Bảo tàng Tà Cơn giai đoạn II 20 tỷ đồng; Khu Di tích Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam 9 tỷ đồng; Bảo tàng tỉnh 7 tỷ đồng... Hiện nay, vốn mục tiêu đang tập trung nâng cấp, phục chế cho một số di tích quan trọng và đặc biệt quan trọng như: Thành cổ Quảng Trị giai đoạn II khoảng 200 tỷ đồng; tái tạo hàng rào điện tử Mc.Namara khoảng 100 tỷ đồng… Tỉnh Quảng Trị cũng bố trí hàng chục tỷ đồng nâng cấp các cơ sở hạ tầng trực tiếp phục vụ cho hoạt động du lịch hoài niệm như đường sá, hạ tầng điện nước, các dịch vụ khác tại các di tích chiến tranh cách mạng trên địa bàn. Từ năm 2005 đến nay, ngành LĐ-TB&XH đã đầu tư nâng cấp mộ liệt sĩ tại Nghĩa trang  quốc gia Đường 9 với tổng kinh phí gần 9 tỷ đồng; dự án nâng cấp NTLS Trường Sơn giai đoạn II được phê duyệt với tổng kinh phí gần 44 tỷ đồng... Những con số chục tỉ, trăm tỉ rồi ngàn tỉ... đó mới một nguồn, là nguồn cấp phát ngân sách. Vấn đề chúng ta đang quan tâm  là sự hưởng ứng của các giai tầng trong xã hội thế nào, cái mà chúng ta quen gọi là xã hội hoá. Có vô vàn những tín hiệu đáng trân trọng và vui mừng. Ngay trong quần thể khu di tích của Nghĩa trang Trường Sơn, cho đến nay nhiều địa phương trong cả nước đã chung tay đóng góp hàng chục tỷ đồng để xây dựng những nhà bia tưởng niệm với biểu tượng của quê hương tại các khu mộ liệt sĩ địa phương của mình, góp phần tạo cho NTLS Trường Sơn thành một công trình lịch sử - văn hóa, một địa chỉ quan trọng cho các hoạt động tri ân của đồng bào, chiến sĩ cả nước.
Nhiều đơn vị quân đội, Hội Cựu chiến binh, Cựu Thanh niên xung phong, Đoàn Thanh niên CSHCM, các đoàn thể tổ chức xã hội và doanh nghiệp cả nước có cùng tâm nguyện chung sức chung lòng đóng góp, tích cực hỗ trợ kinh phí đầu tư nâng cấp phục chế xây dựng mới các cụm đài tưởng niệm với hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng như thế. Năm năm qua có rất nhiều “mạnh thường quân” đồng chí hướng như Ngân hàng Công thương hỗ trợ cho Nhà trưng bày tại di tích Thành Cổ 237 triệu đồng; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hỗ trợ tôn tạo khu di tích Thành cổ 400 triệu đồng và 300 triệu đồng nâng cấp Đài tưởng niệm anh hùng Đảo Cồn Cỏ; Cựu chiến binh Sư đoàn 304 và Bộ đội Tăng thiết giáp cùng các đơn vị, các đoàn thể khác trong nhiều đợt đã đóng góp nâng cấp hàng loạt di tích. Là đài tưởng niệm Trung đội Mai Quốc Ca bên cầu Thạch Hãn; là Bia tưởng niệm tại Hải Lâm (Hải Lăng); là Đài tưởng niệm ở cảng Cửa Việt; là Đài tưởng niệm Trung đoàn 27 tại Cam Tuyền; là Cây đa Gia Bình, Đồi 82, Ngô Xá Tây, Cao điểm 31 Phúc Xá; là Đài tưởng niệm chiến sỹ Thông tin ở Dốc Miếu... Rồi Tháp chuông  Thành Cổ, nghĩa trang Đường 9, nghĩa trang Trường Sơn; Bến thả hoa Bờ Nam sông Thạch Hãn (cũng do ngân hàng Công thương Việt Nam tài trợ) và Bắc sông Thạch Hãn do ngân hàng Phát triển Việt Nam tài trợ. Đặc biệt, trong dịp Lễ 27.7.2009 vừa qua các Sở, Ban, Ngành, đơn vị, doanh nghiệp hỗ tợ 64 tỷ đồng nâng cấp xây dựng Công viên và Đài tưởng niệm chiến sĩ Thành Cổ tại bờ Bắc sông Thạch Hãn...
Cũng sẽ rất thiếu sót nếu không kiểm kê lại tình hình các doanh nghiệp du lịch, khách sạn, trung tâm lữ hành ở Quảng Trị tự lực cánh sinh như thế nào? Họ đang tích cực đầu tư nâng cấp các cơ sở lưu trú, lữ hành, phương tiện và dịch vụ khác phục vụ chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ và những kết quả đạt được sau đây không phải là không ấn tượng.  Đến nay trên địa bàn Quảng Trị đã có 78 khách sạn, nhà nghỉ du lịch với 1.700 phòng, đủ điều kiện đón các đối tượng khách du lịch. Một số cơ sở lưu trú xây dựng mới đạt chuẩn 3 sao đã đưa vào sử dụng như Khách sạn Hữu Nghị, Khách sạn Đông Trường Sơn, Khách sạn Mê Kông; đạt chuẩn 2 sao như Khách sạn Lan Anh, Khách sạn Thái Ninh…Hiện 29 cơ sở khác đang tiến hành xây dựng với quy mô lớn như Giang sơn Cẩm Tú ở Lao Bảo, khách sạn Sài Gòn – Đông Hà tiêu chuẩn 4 sao và hàng chục công trình đang khởi công ở Cửa Việt, Cửa Tùng, Đông Hà, Lao Bảo... Đáng chú ý Công ty Du lịch và Xúc tiến đầu tư -VIPTOUR (Tổng cục Du lịch) đang xây dựng “Trung tâm Du lịch Hoài niệm Việt Nam” tại Thị xã Quảng Trị với số vốn 100 tỷ đồng (ngày 3/2/2010 đã khai trương giai đoạn I).  Nhiều Công ty du lịch của Quảng Trị đã mạnh dạn đầu tư mua sắm phương tiện xe, máy móc, thiết bị có giá trị lớn. Công ty Cổ phần Lữ hành Sê Pôn, Công ty Cổ phần  Ô tô Dòng Hiền mạnh dạn đầu tư hàng chục xe từ 45 chỗ ngồi trở lên đưa đón khách.Tập đoàn Mai Linh chi nhánh ở Quảng Trị, Công ty Cổ phần Dịch vụ Thành Quả, Công ty Cổ phần Ô tô Dòng Hiền đầu tư gần 100 xe khách và taxi; đầu tư hàng chục tỉ đồng mua sắm thiết bị nghe nhìn  phục vụ khách theo chương trình du lịch hoài niệm... Bên cạnh đó, sở LĐTBXH tích cực nâng cấp chỉnh trang Nhà khách đón thân nhân liệt sỹ 27/7 phục vụ ngày càng tốt hơn. Trung tâm vừa được Công ty TNHH Hòa Bình (Hà Nội) ủng hộ 3 tỷ đồng xây dựng một khu nhà 3 tầng với 20 phòng nghỉ cho thân nhân khi đến viếng và tìm kiếm mộ liệt sĩ. Tất cả những việc làm đó đều có tính chất bổ trợ, chung tay góp sức nhưng hiệu quả mang lại cho chương trình du lịch hoài niệm là lớn lao vô bờ.
Năm năm qua, chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ còn được tiếp sức bởi vô vàn các hoạt động bổ trợ khác. Nói là bổ trợ, gián tiếp nhưng khi đã vào việc thì mọi người ai ai cũng đều là người trong cuộc, bởi ai đến với mảnh đất thiêng này cũng bằng tấm lòng tự nguyện, xã thân, đền ơn đáp nghĩa. Bộ Chỉ huy Quân sự, Công an, các Sở, Ban ngành chức năng của tỉnh từ 2005 đến nay đã đón, bảo vệ an toàn gần 360 đoàn cấp cao huy động hơn 5.000 lượt người phục vụ; đón tiếp trên 100 đoàn cựu chiến binh với trên 6.000 lượt người đến thăm viếng, hành hương về chiến trường xưa; đón và phục vụ gần 3.500 thân nhân liệt sỹ các tỉnh, thành phố đến thăm viếng, tra cứu về thông tin liệt sĩ  và hàng ngàn người đến làm chế độ thương binh, bệnh binh, mất sức, đề nghị suy tôn liệt sĩ. Hằng năm như đã trở thành thông lệ, nhiều đơn vị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp hoài cố chiến trường xưa quay về đóng góp cho chương trình du lịch hoài niệm mỗi lần mỗi cách thức, một cách làm hay gây ấn tượng xúc động như Đoàn Cựu chiến binh do Báo Quân đội Nhân dân tổ chức với chủ đề “Vang mãi khúc quân hành”; Đoàn Cựu chiến binh mặt trận B4-B5 , Đoàn cựu chiến binh Tiểu đoàn 3 (K3, Tam Đảo) tổ chức thăm chiến trường xưa và tọa đàm với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh; Đoàn Cựu chiến binh Trung đoàn 27 (Mặt trận B5 – Đường 9) tổ chức hoạt đông dã ngoại với chủ đề “Ấm rừng đồng đội”... Nhiều đoàn thể, tổ chức xã hội, tôn giáo thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động tưởng niệm tri ân rất có ý nghĩa. Chiến dịch Thanh niên tình nguyện toàn quốc Hè 2006 tại Thành cổ Quảng Trị; “Hành trình về với Trường Sơn” do Tỉnh đoàn Quảng Trị và Thành đoàn Tp. Hồ Chí Minh phối hợp với 8 tỉnh, thành phố khác tổ chức dâng hương hoa, làm vệ sinh, làm mới 1.800 ngôi mộ tại Nghĩa trang quốc gia Đường 9 và 10.263 ngôi mộ tại Nghĩa trang quốc gia Trường Sơn. Hàng năm trên một vạn đoàn viên thanh niên khắp cả nước hội tụ về đây báo công, tỏ lòng tri ân và thể hiện không biết bao nhiêu là nghĩa cử. Chỉ tính riêng một lễ cầu siêu của Phật giáo diễn ra thường niên ở Nghĩa trang quốc gia Trường Sơn, Đường 9 hay tại Thành cổ Quảng Trị đều thu hút hàng ngàn tăng ni phật tử và dân chúng trong vùng đến dự lễ...
Bằng vào mọi nổ lực vừa nêu mà từ năm 2005 đến năm 2009, các doanh nghiệp Du lịch, lữ hành ở Quảng Trị tổ chức được 1.562.392 lượt khách theo Chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ, với doanh thu đạt 519 tỷ đồng. Trung tâm Bảo tồn Di tích & Danh thắng, Ban quản lý các Nghĩa trang quốc gia, Nhà đón tiếp thân nhân liệt sỹ 27/7 cũng đã đón và phục vụ 1.860.988 lượt khách đến tham quan, nghiên cứu, làm chính sách, chế độ (trong đó Trung tâm Bảo tồn Di tích & Danh thắng đón và phục vụ 806.000 lượt khách, doanh thu đạt gần 7,4 tỷ đồng; các Nghĩa trang quốc gia và Nhà đón tiếp thân nhân liệt sỹ 27/7 đón phục vụ 1.031.000 lượt)... Kết quả này có thể còn khiêm tốn chưa tương xứng với những gì mà TW, tỉnh và toàn xã hội đã đầu tư công sức cũng như rót tiền của vào đây. Vì vậy trước mắt còn vô số công việc phải làm.
 
                                                          
Để Chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ phát triển đồng bộ, lộ trình trong những năm tiếp theo Quảng Trị cần có sự tiếp sức và đầu tư của các Bộ ngành TW và toàn xã hội cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Chúng ta đã làm tốt một số khâu trong tuyên truyền nhưng công tác quảng bá du lịch nói chung chưa được đầu tư đúng mức vá việc quảng bá cho chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ còn quá khiêm tốn. Đề nghị Bộ VH-TT&DL, Tổng cục Du lịch quan tâm đưa chương trình HNCTX&ĐĐ ở Quảng Trị thành chương trình hành động quốc gia; đồng thời hỗ trợ giúp đỡ Quảng Trị tuyên truyền, quảng bá chương trình này có hiệu quả  sâu rộng trong nước và quốc tế. Nâng cấp các lễ hội cách mạng đã được tổ chức rất thành công và có ấn tượng tốt như Tri ân Tháng 7, Nhịp cầu Xuyên Á... thành lễ hội có tầm quốc gia, nhằm giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam, tri ân các anh hùng liệt sỹ và tuyên truyền rộng rãi chiến công oanh liệt cho bạn bè quốc tế hiểu để chia sẻ, ủng hộ Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập.
Đầu tư mạnh mẽ trong việc tôn tạo, phục chế, nâng cấp các di tích lịch sử cách mạng quan trọng và đặc biệt quan trọng. Đề nghị Chính phủ và các Bộ ngành chức năng quan tâm đầu tư vốn phục chế, nâng cấp các di tích cách mạng ở Quảng Trị, ưu tiên các di tích quan trọng như Hàng rào điện tử Mc.Namara, Thành cổ Quảng Trị giai đoạn II, cầu Bến Tắt – Khe Hó, đường mòn Hồ Chí Minh giai đoạn II, cụm di tích Hiền Lương – sông Bến Hải giai đoạn II và các nghĩa trang liệt sỹ quốc gia. Hoàn thành quy hoạch và công bố các chương trình tour tuyến du lịch liên quan chương trình du lịch hoài niệm; tích cực xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch và chất lượng các dịch vụ bổ trợ nhằm tăng trưởng lượng khách tham quan. Khẩn trương đào tạo nguồn nhân lực du lịch, trước hết là nguồn nhân lực phục vụ chương trình du lịch hoài niệm về nghiệp vụ, kỹ năng hướng dẫn du lịch, thuyết minh, trình độ ngoại ngữ, giao tiếp cho các hướng dẫn viên du lịch lẫn di tích. Đề nghị Bộ Quốc phòng, Bộ VH-TT&DL và Tổng cục Du lịch hỗ trợ, tạo điều kiện để Công ty VipTour sớm hoàn thành “Trung tâm Du lịch hoài niệm Việt Nam” và khách sạn hoài niệm tại thị xã Quảng Trị; phát triển “Quỹ Hoài niệm” phục vụ tốt chương trình du lịch này.
Chương trình du lịch HNVCTX&ĐĐ mới được triển khai trên địa bàn  Quảng Trị, chưa được mở rộng sang nước bạn Lào, có tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua những địa danh diễn ra những trận đánh ác liệt trên Đường 9- Nam Lào; chưa tổ chức tốt việc liên kết với các tỉnh, thành phố trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại và “Hành trình Di sản Miền Trung” với các tỉnh bạn như Quảng Bình - Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam nên kết quả còn hạn chế.
Đề nghị Tổng cục Du lịch điều phối kết hợp các chương trình du lịch “Con đường Di sản Miền Trung”, “Con đường Huyền thoại”, “Hành lang Đông – Tây” với Chương trình du lịch HNCTX&ĐĐ để thúc đẩy du lịch Miền Trung, trong đó có Quảng Trị phát triển lên tầm cao mới.
 

Thư đầu thu gửi bạn ở chân trời

30/09/2024 lúc 16:52

Bỗng dưng nhớ tới thằng Đức. Cái thằng cao cao gầy gầy có cái trán dô bóng loáng loà xoà những lọn tóc xoăn. Đức ở với mình gần hai năm trên gác hai sau cái "chuôi vồ" yên tĩnh của toà nhà ba tầng này. Bây giờ nghe nói Đức vô Sài Gòn. Mấy hôm trước gặp con Nguyệt, bà con với Đức nó bảo để em tìm số máy Đức cho anh...

Như là chỉ một mẹ thôi

30/09/2024 lúc 16:52

Mét lÇn t«i ®­a b¹n vÒ th¨m quª, mét lµng nhá ven biÓn Qu¶ng TrÞ. T«i rÊt mõng v× quª t«i ®· cã nh÷ng nÐt phè, nh÷ng qu¸n cµ phª, biza, nhËu b×nh d©n. Lµng sinh th¸i trªn c¸t ®· trô ®­îc, ngµy cµng ph¸t triÓn bÒ thÕ. §ã ®©y r¶i r¸c xuÊt hiÖn nh÷ng biÖt thù v­ên, thµnh qu¶ cña nh÷ng ng­êi hµng chôc n¨m vËt lén, t×m tßi, thÓ nghiÖm c©y trång vËt nu«i vµ b©y giê tróng ®Ëm con t«m thÎ ch©n tr¾ng. §ét nhiªn b¹n t«i nãi: Quª «ng ch¼ng cã g×! T«i ch¹nh lßng. C©u ®ã t«i nghe kh«ng Ýt ng­êi nãi vµ lÇn nµo còng thÊy xãt d¹. .....

Nhen lửa nướng khoai

30/09/2024 lúc 16:52

 Những chớm gió đông khe khẽ lướt qua làng. Buổi chiều thường hay rắc vài hạt mưa như cốm trời toả xuống. Ấy là vào độ cuối tháng mười âm lịch. Dường như chính cái sắt se của buổi đất trời vào đông đã cối lại nơi tôi một nốt thắt đáng nhớ.
1. Trên bãi đất cồn, lũ trẻ chăn trâu bắt đầu bày trò để chơi. Vào độ này, chúng tôi thường nhen lửa nướng khoai. 
 

« 7172737475 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

26/01

25° - 27°

Mưa

27/01

24° - 26°

Mưa

28/01

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground