21/04/2025 lúc 08:57
28/01/2025 lúc 23:02
Đ
ầu xuân, trong cuộc gặp mặt những người anh em thân thiết, anh Trương Kim Quy, chuyên viên Phòng Văn hóa- Thông tin huyện Triệu Phong (Quảng Trị) đã đọc cho tôi nghe bài thơ “Bến hẹn” anh viết tặng Bà mẹ VNAH Dương Thị Yến, thôn Hà La, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong. Bài thơ với những dòng kết làm xao động lòng người:
Ngàn thu chờ đợi yêu thương mãi
Trong trắng thủy chung mấy mới vừa...
Bài thơ anh Quy viết ra dường như chưa nói hết những nỗi niềm tự sự của anh gửi gắm về mảnh đất anh gắn bó, yêu thương bậc nhất, nơi anh đã để lại cả một thời tuổi trẻ đáng nhớ và sôi nổi. Bị những câu thơ anh Quy dẫn dụ, tôi lần theo những câu chữ đầy ắp hoài niệm của anh mà tìm về Triệu Phước......
28/01/2025 lúc 23:02
N
gười đàn bà Quảng Trị đối diện qua cái bàn nước con con hồn nhiên kéo tôi về thực tại:
- Bác biết không, ngày nào em cũng chỉ ngồi đây mà thu nhặt được cả nắm đô la. Mới tinh bác ạ! Toàn tờ một trăm. Hồn thiêng các anh dưới suối vàng chắc tiêu không hết.
Chị vô tâm. Còn tôi thì son sót. Bên tai vang lên lời ca từ nửa thế kỉ trước: Súng reo trên ngã tư Sòng, rằng ta diệt hết tiểu đoàn Trâu Điên, Đầu Mầu trận đánh công kiên… Ngã tư Sòng kia, có cách tới ngàn mét hay không, xe cộ rầm rập từ Nam ra Bắc và từ Bắc vô Nam. Những chiếc xe hộp nhỏ nhanh lượn vun vút. Những xe chở khách đủ loại chật kín người. Xe giường nằm kềnh càng trôi đi trôi lại thỉnh thoảng bóp lên hồi còi oai linh khoe mẽ. Xe chở congtenlo hùng hổ như cậy mình là chúa tể vừa chạy vừa dằn mặt lòng đường. Tôi nâng li cà phê nhấm nháp và ngồi im chìm trong suy tưởng......
28/01/2025 lúc 23:02
V
ề với Trường THCS Tà Long, xã Tà Long, huyện Đakrông vào một ngày đầu năm học mới, tôi nhận được thông tin đây là năm học đầu tiên nhà trường cử ba cô giáo cấp tiểu học vào vùng khó Pa Ngay gieo chữ. Lại được thầy giáo Trần Đức Hoành, Hiệu trưởng nhà trường cho biết, giữa đại ngàn, ba cô giáo vẫn kiên cường bám bản, bám lớp để gieo từng con chữ cho các em học sinh dù điều kiện sống hết sức khó khăn. Nghe đến đây, tôi quyết định làm một chuyến cắt rừng vào bản xa, vào với điểm trường được xem như là “cùng cốc” của xã Tà Long.
Vào bản dạy phải lái xe giỏi
Biết điểm trường Pa Ngay nằm ở nơi “sơn cùng thủy tận”, trước khi đi vào bản, thầy Trần Đức Hoành nói: “Cần phải có người dẫn đường, chứ anh vào đó một mình là bị lạc ngay. Tranh thủ đang còn nắng, anh đi gấp đi. Gần 30 km đường rừng, nếu thuận lợi thì khoảng 2 giờ đồng hồ là đến nơi”. Sau đó, thầy liên lạc cho cô giáo Trương Thị Thúy Vy, người mà thầy gọi đùa là “thổ địa” dẫn tôi đi.
Chiếc xe máy vốn không còn mới, tôi phải luôn cài số một mới leo lên được con dốc, đứng trên đỉnh đèo, cô Vy chỉ tay về hướng rừng xa rồi nói: “Còn 1/3 quãng đường nữa anh ạ, đường khó đi, anh cố bám vào chỗ nào nhiều sỏi để xe khỏi trượt xuống vực”. Nói rồi cô lại rồ ga đổ dốc xuống bản Chai, không may chiếc xe lao xuống vũng lầy, chưa kịp nhảy xuống xe để giúp, cô đã gàn: “Không sao đâu anh, quen rồi. Chỗ anh đứng cũng đang nguy hiểm đó, cố giữ thắng cho chắc”.
Hai chúng tôi lại tiếp tục hành trình bỏ lại sau lưng bao nhiêu đèo, vực sâu mà Pa Ngay vẫn ở đâu xa lắm. Đã qua bản Chai nửa giờ đồng hồ, xuống Sa Trầm hơn 5 cây số, mà vẫn chưa đến nơi. Thấy tôi hơi lo lắng, “thổ địa” Thúy Vy trấn an: “Hết đoạn đường này, đến bản Ngược và sẽ là Pa Ngay…” Công tác ở một vùng sâu là vậy nên hình như cô giáo nào muốn bám bản đều phải tự mình rèn luyện kỹ năng lái xe máy vượt dốc thì phải. Như hiểu được sự thắc mắc của tôi, cô Vy tâm sự: “Mới đầu vào bản, nhìn thấy con đường mà thật muốn quay về. Nhưng đến nơi rồi, thấy các em học sinh khao khát con chữ thế nào, con đường xấu thế này hay thậm chí còn tệ hơn nữa cũng chẳng bõ bèn gì. Ban đầu đi sẽ ngã, ngã rồi cũng quen, luyện mãi rồi tay lái cũng chắc. Bọn em hay đùa với nhau rằng, đã vào bản dạy thì lái xe máy cũng giỏi…”.
Vừa dứt câu chuyện thì Pa Ngay cuối cùng cũng đã hiện ra với những nóc nhà sàn nằm vắt vẻo trên các sườn đồi. Phóng tầm mắt xuống cạnh bờ suối, tôi thấy một mái nhà lợp bằng lá nón. “Đó! Nơi tá túc của ba cô gái đó, biết anh xuống chắc họ sẽ mừng lắm”, cô Vy nói.
“Em không muốn rời bản”
Pa Ngay xa ngái là thế, thiếu thốn đủ thứ, vậy mà khi đã vào bản gieo chữ, mỗi cô giáo đều gắn cuộc sống của mình với chốn “rừng thiêng nước độc” này đến kỳ lạ. Đó là câu chuyện cảm động của ba cô gái, vốn tuổi đời mới chỉ đôi mươi. Họ vào bản rồi thành người con của bản, họ xem học sinh như đứa em ruột rà của mình....
28/01/2025 lúc 23:02
T
rong biên chế Lữ đoàn Công binh 249 thuộc Bộ Tư lệnh Công binh vào năm 1972 có hai phần ba quân số là dân Hà Nội gốc. Lữ đoàn này trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972 làm nhiệm vụ Bắc cầu phao qua sông Bến Hải tại điểm cầu Hiền Lương nối hai bờ Bắc - Nam để bộ binh cơ giới của ta từ Vĩnh Linh vượt sông tiến vào giải phóng Gio Linh mở màn chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Cũng cần nói thêm Lữ đoàn này có vinh dự nối nhịp cầu Hiền Lương lịch sử sau 21 năm hai miền Bắc – Nam bị chia cắt.
Năm 2004, Đoàn cựu chiến binh Lữ đoàn 249 về thăm lại chiến trường xưa, tôi được phân công đi theo các anh đến những nơi mà các anh từng bám trụ, chiến đấu. Những cựu chiến binh Lữ đoàn Công binh 249 người Hà Nội không biết tôi cũng từng là người lính.
Tại hai điểm phía Bắc và phía Nam cầu Hiền Lương, các cựu chiến binh Lữ đoàn 249 cùng với các sỹ quan Lữ đoàn đương nhiệm cầm hương trên tay nhưng phân vân không xác định được vị trí nào là điểm cầu phao năm xưa. Các anh muốn cắm hương vào hai điểm tiếp xúc thiêng liêng hai đầu cầu phao, một đầu là miền Bắc xã hội chủ nghĩa và một đầu là miền Nam ruột thịt đi trước về sau!
Theo các anh mô tả: Hôm ấy khoảng 14h ngày 2/4/1972, sau khi cầu phao bắc được hai ngày, máy bay Mỹ đã xác định được vị trí cầu và liên tục dội bom hòng cắt đứt điểm huyết mạch trọng yếu của hậu phương nối với tiền tuyến vừa được thiết lập. Tại chiếc hầm chữ A gần mép nước, cả ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 đã trúng bom hy sinh khi chỉ huy bảo vệ cầu. Những ngày tiếp sau cho đến khi chiến dịch phát triển sâu xuống phía Nam, hai đầu cầu phao Hiền Lương không lúc nào ngớt tiếng bom pháo và tiếng súng đánh trả của lực lượng bảo vệ cầu. Sau hơn 30 năm trở lại không ai trong Lữ đoàn xác định được địa điểm cũ để thắp hương viếng đồng đội.
Khi các anh đang loay hoay thì tôi liền nói:
- Các anh có thể cắm hương lên bất cứ nơi nào trên bến Hiền Lương, bởi đằng đẵng hai mươi sáu năm chiến đấu, mỗi tấc đất ngọn cỏ trên mảnh đất này đều thắm máu đồng bào đồng chí chúng ta!
Mọi người nghe ra và làm theo. Cả bến sông ngan ngát khói hương…
Có một Cựu chiến binh bước tới bên tôi:
- Mày làm bên Văn hóa à?
Tôi thấy khó chịu và thoáng nghĩ: “Dân Tràng An mới gặp lần đầu mà đã xưng hô thật bặm trợn!” Nhưng rồi tôi vội ngộ ra: “Chỉ có lính, chất lính đậm đặc mới đủ tự tin xưng hô với người lạ như vậy”.
Tôi trả lời:
- Không, em cũng là cựu chiến binh…
Anh nói oang oang với đám đông:
- Thằng dân “bản địa” này cũng là lính đây bà con ơi!
Mọi con mắt nhìn về phía tôi và trong phút chốc bầu không khí khách chủ tan biến nhường chỗ cho sự cởi mở chân thành:
- Hồi trước đi lính ở binh chủng nào?
- Em ở đặc công!
- Binh chủng mày suốt đời ở chùa!
(Cái câu đùa mà thật này nếu không phải dân Hà Nội gốc không thể biết được chuyện Bộ Tư lệnh đặc công những năm chống Mỹ và bảo vệ Tổ quốc chuyên trị đóng trong các chùa thuộc xã Đông Mỹ - huyện Thanh Trì - Hà Nội).
- Mày làm đến chức gì rồi?...
28/01/2025 lúc 23:02
C
hỉ hừng lên được chừng giữa buổi sáng, quá trưa sang chiều bầu trời đã chuyển sang xám xịt. Rồi gió về, rồi mưa bay. Mưa như rây bụi. Mưa chếch theo chiều gió, vát chéo một góc nghiêng. Bầu trời, và cả gió cả mưa, xóm làng đã xám với những mái tranh đìu hiu ảm đạm càng như ảm đạm thêm trong mưa bụi. Cánh đồng trở nên mờ ảo xa xôi. Những bóng người cặm cụi mờ dần ngoài đồng xa. Người dong trâu bò, người gánh gồng, và cả lũ trẻ với áo xống tơi tả liêu xiêu bước trong gió mưa thốc ngược. Đám trẻ chăn trâu kéo nhau tìm gò bụi tránh những cơn gió hùn hụt thổi. Chúng rủ nhau vơ rơm rạ đốt lửa chống rét. Những bộ mặt tím tái. Tiếng hít hà run rẩy. Mấy đứa tát cá dưới mương ham con rô con diếc, quần áo te tua bê bết run lập cập đứng nhìn làn khói quằn quại, ngọn lửa lật phật ấm áp với sự chọn lựa dùng dằng...
Lúc này hành tỏi rau diếp xà lách thì là... bao nhiêu thứ ngoài vườn xanh um mơn mởn. Những giọt nước li ti như hạt sương lăn tròn trên những tàu rau làm cả vườn ánh lên như thoa mỡ. Đàn gà con nghe tiếng tục tục của mẹ chui qua mấy phên rạ rào vườn chạy vội vào phía sau đống rơm tránh rét. Mẹ gà xoè rộng đôi cánh ấp trọn cả đàn con. Làng xóm nhắc nhau phải chống rét cho trâu bò. Trước lúc đi cày buổi chiều, bố tôi tủ lên lưng trâu tấm bì rồi lịch kịch dong trâu, miệng tự nhắc mình phải nhớ che thêm phên tranh cho cái ràn trâu....
Ai mà chẳng trải qua những ngày tháng Chạp, nhưng có được cảm giác rét mướt của mưa phùn gió bấc thì lại không phải là tất cả. Cái thiếu đói, cái rét mướt của thuở nghèo như một lời nhắc nhớ tới quê hương xứ sở. Tuổi thơ tôi đã trải qua những tháng chạp rét mướt mưa phùn gió bấc. Hễ mỗi dịp tháng chạp đến là trước mắt tôi vẫn như hiện ra vườn rau xanh mướt, cánh đồng gầy guộc ảo mờ. Và tất cả đã đọng mãi trong thẳm sâu tâm khảm khó nói thành lời. Và những ngày mưa phùn gió bấc đã như là một phần trong hình ảnh quê hương. Trong những năm tháng đi xa, tôi mang theo hình ảnh làng quê với dáng hình của mẹ liêu xiêu bước đi trong chiều đông rét mướt. Hình bóng Người như con cò lặn lội, hết chăm chồng rồi đến nuôi con...
Và tôi cũng đã có một mùa đông không có mưa phùn gió bấc. Tham gia chia lửa với chiến trường nước bạn năm ấy, tháng Chạp về và chúng tôi biết rằng quê hương đã sắp sửa hết đạn bom, làng xóm sẽ chìm trong mưa lạnh. Vậy mà, cũng thời khắc ấy, cả núi rừng bên này cây đã rụng lá và bầu trời suốt ngày ong ong mây mù như khói loãng. Rừng cây trở nên khẳng khiu xương xẩu. Chẳng gió chẳng mưa, những đoạn đường lấm bụi, những đoàn quân nhễ nhại mồ hôi. Chỉ đêm về mới có rét, cái rét khô khan buốt đến nỗi nứt nẻ cả chân tay. Cả đơn vị trú quân trong hang, cách con đường chiến dịch một quãng rừng xào xạc lá khô. Nơi đây xa quê mẹ, chúng tôi chỉ liên hệ với quê hương bằng sóng của đài tiếng nói Việt Nam. Và trong cái hang sâu lạnh lẽo mà ấm tình đồng đội ấy chúng tôi đã có cả tiếng đồng hồ phập phồng khắc khoải. Đang háo hức nghe tiếng nói quê hương thì đột ngột tiếng đài im bặt. Cả tiếng đồng hồ không ai nói nên được một lời. Một không khí nặng nề đến nghẹt thở. Giặc đã dùng pháo đài bay đánh vào đài Tiếng nói Việt Nam. Quê hương đất nước sắp được hoà bình, ấy vậy mà...Nhưng rồi tảng đá đè nặng lên lồng ngực mỗi người cũng được hạ xuống bởi tiếng nói từ trong chiếc Ra đi ô cũng đã cất lên. Chúng tôi hò reo, chúng tôi nhảy múa và nghe như rừng cây cũng đang tí tách cụ cựa nứt chồi. Và sáng ra, ô kìa, cả rừng cây trong mơ màng sương khói đã như được quét lên một lớp xà cừ. Mỗi đứa chúng tôi đi làm nhiệm vụ ngây ngất như say và cảm thấy đang rất gần quê mẹ. Và kì lạ nữa, trong tôi như bắt gặp hình ảnh gió bấc mưa phùn. Hoá ra những ai nặng lòng với quê hương thì dù ở đâu vẫn có quê hương ở đó. Quê hương là cánh đồng mờ ảo trong sự đổi mùa. Quê hương là luỹ tre với tiếng gà cục tác, mẹ cha ta cặm cụi tảo tần...
28/01/2025 lúc 23:02
N
ăm 1980, để đi thăm gia đình của một người thân, lần đầu tiên tôi về Gio An. Bấy giờ, đường lên Gio An phải lội qua một vùng đồi trống huơ trống hoác, lâu lâu lại bắt gặp những cụm dây thép gai bùng nhùng lẫn giữa những bụi sim móc. Tàng ẩn dưới mặt đất là bom mìn và vật liệu nổ chưa rà phá được. Những bảng cảnh báo nguy hiểm, một cái đầu lâu và hai cái xương người bắt chéo trông rờn rợn, nổi cả da gà.
Dấu tích chiến tranh cho tôi nhớ lại một thời với bao nhiêu sự tích đau thương và anh dũng của nhân dân vùng miền tây Gio Linh, trong đó có nhân dân Gio An đã kiên cường, sống chết vì mảnh đất quê hương. Một cái xã nhỏ chỉ vẻn vẹn 2711 héc ta đất với hơn ba ngàn dân trong mấy năm trời đã bị cày xới tung tóe lên trong khói lửa chiến tranh. Vùng đất ấy được lịch sử xã ghi lại: là nơi tập kết quân và triển khai những mũi tấn công trên toàn địa bàn của quân giải phóng Mặt trận B5. Vùng đất ấy cũng được huyện Gio Linh chọn làm căn cứ của huyện, bị bom Mỹ chà đi xát lại không còn một dấu tích. Nhân dân Gio An phải đương đầu với một lực lượng địch đông và với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại. Tháng 5 năm 1967, trước sự càn quét điên cuồng của giặc Mỹ, ta chủ trương đưa dân sơ tán ra Bắc thực hiện vườn không nhà trống vừa giảm tổn thất cho nhân dân. Nào ngờ địch biết được tập trung lực lượng dồn dân vào trại tập trung, nhân dân không cam chịu đã tổ chức vượt tuyến. Và cái ngày đau thương 20 tháng 5 năm 1967 ấy đã đến, địch cho máy bay ném bom đánh phá vào giữa sông trong lúc nhân dân đang vượt sông để ra miền Bắc. Máu và thây người đỏ chật dòng sông. Cái ngày đau thương đó, giặc Mỹ đã giết hơn năm trăm dân thường của xã Gio An. Gio An trở thành vùng trắng không dân, chỉ còn 96 cán bộ đảng viên và du kích tập trung ở hai thôn An Nha và Phường Xuân để kìm chân giặc. Một trăm phần trăm nhà cửa bị phá huỷ, song tuyệt nhiên chẳng thể hủy diệt nổi sự sống. Người chết tìm về với đất, người sống cũng lặn vào đất đai mà tồn tại để chiến đấu và chiến thắng. Chín mươi sáu cán bộ, chiến sĩ, du kích càng kiên gan, quyết tâm giữ đất quê bằng “Bám thắt lưng giặc mà đánh”; Đề ra khẩu hiệu có tính mệnh lệnh: “Dỡ nhà làm hầm trú ẩn”, “Nhà che nắng che sương, hầm che xương che thịt”; “Một tấc không đi, một ly không rời”;…Biết bao nhiêu người con ưu tú của quê hương Gio An, của mỗi vùng miền trên đất nước đã ngã xuống để giữ lấy mảnh đất này. Đồng chí Trương Thanh Hải, xã đội trưởng, đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Anh đã kịp lắp lê đâm chết năm lính Mỹ trước khi gục xuống dưới gốc đa làng. Anh hùng Cao Như Thiêm chiến đấu bị thương vào tay và bị địch bắt, vẫn anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng trước khi hy sinh. Anh đã gửi lại lời thề và niềm tin vào thắng lợi: “Việt Nam nhất định thắng”, “Hồ Chí Minh muôn năm”…
Quê hương sạch bóng quân thù, nhưng cái giá của độc lập tự do đã phải đổi bằng “một tấc non sông, một dòng máu đỏ” của nhân dân. Máu xương, nước mắt, mồ hôi của nhân dân Gio An đổ xuống trong chiến tranh đang được đền đáp. Nhân dân đang ngày càng nhanh nhạy nắm bắt chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước để mở hướng đi cải thiện đời sống, và từng bước làm giàu có đời sống của mình. Họ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, đột phá trong cách làm ăn, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nhất là từ khi có Nghị quyết 03 của huyện Gio Linh về phát triển vùng kinh tế gò đồi, triển khai các dự án 327, cao su tiểu điền, thì vùng đất này cây cao su đã làm chủ, làm đổi đời người dân ở đây. Những năm gần dây xã Gio An đã có nhiều ngôi biệt thự mọc lên, điều đó nói lên rằng thu nhập từ trang trại, từ cây cao su đã đưa người dân đến chỗ khá giả, cuộc sống ngày một tươm tất. Trên mảnh đất từng được mệnh danh là “vành đai trắng” với ngổn ngang bom đạn này, những người cựu binh năm xưa và hôm nay trong gian khổ khó khăn càng sáng lên phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ với những ước mơ táo bạo đã lập nên những trang trại phát triển kinh tế làm giàu cho gia đình cho xã hội. Họ đã biến những vùng đất, đồi trọc ở miền tây Gio Linh thành những cánh rừng xanh bát ngát, tận dụng được nguồn tài nguyên dồi dào từ lòng đất....
28/01/2025 lúc 23:02
D
ù đã từng nhìn thấy những cây chè ấy trên ảnh, trong phim, nhưng khi tới xã Suối Giàng (huyện Văn Chấn - Yên Bái) áp tay lên lớp địa y phủ mốc thếch trên thân cây chè cổ thụ gân guốc chúng tôi vẫn không khỏi bất ngờ. Xưa nay nói đến cây chè, ai cũng hình dung những đồi chè lúp xúp trên những bình nguyên, những chồi chè biếc non đọng nắng rực sáng màu diệp lục, không thể tin có những cây chè cao hàng chục mét và thân rộng cả vòng tay ôm, người hái trà đứng chon von trên từng nhánh trà để hái lá như thế này…
Sổng A Nủ, chủ tịch xã Suối Giàng cẩn thận tráng ấm, cho vào một vốc trà móc câu anh ánh bạc và nói với chúng tôi: “Muốn viết về chè Suối Giàng thì phải uống trà Suối Giàng đã, mới có “cảm xúc” mà viết!”
Chiết trà ra chiếc chén nhỏ trên khay, màu nước óng vàng và hương thơm dậy ngát theo chén trà bốc khói, dù là người không sành về trà, nhưng quả thật, đến với Suối Giàng-“đệ nhất kỳ quan trà Việt” vẫn thấy trong mình lâng lâng khinh khoái như một đệ tử của trà đạo. Chủ tịch xã Sồng A Nủ nheo mắt cười cười: “Nhìn rồi, ngửi rồi, giờ nếm thử đi…” Nhấp ngụm trà sóng sánh, một cảm giác tê đắng, chan chát đầu lưỡi vừa lan ra đã biến thành vị ngọt rất “hậu”. Nhưng câu chuyện về hương và vị của trà Suối Giàng chúng tôi sẽ nói thêm ở phần sau. Giờ thì chúng tôi đang đi trong miên man bạt ngàn của rừng chè cổ thụ. Đang là tháng mười miền Tây Bắc, mây trắng vẫn giăng giăng qua những đồi chè Từ độ cao trung bình 1371 mét của Suối Giàng nhìn xuống thung lũng Nghĩa Lộ-Văn Chấn kéo dài hàng chục cây số đang ửng vàng sắc lúa, rồi nhìn lên đỉnh Chông Páo Mùa chìm trong mây, càng thấm thía cái tên Suối Giàng - miền thượng giới, bởi trong tiếng Mông, Giàng chính là Trời. Và những cây chè cổ thụ này chính là báu vật của miền trờiban tặng riêng cho Suối Giàng
Những cây chè ở “miền trời” cứ mê hoặc dẫn dụ chúng tôi đi, từ bản Giàng A đến Giàng B qua Pang Cáng, đến Tập Lăng… Hơn tám vạn cây chè cổ tập trung thành một quần thể rộng lớn chưa từng có ở bất cứ đâu. Nếu nói về những cây chè có thân to, chúng tôi đã gặp ở Sín Chải, Lao Chải, Cao Bồ… (thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang) nhưng tập trung quần tụ sum vầy làm nên một miền chè cổ thụ kỳ thú như thế này, có lẻ Suối Giàng là nơi duy nhất.
Đưa chúng tôi ra hội trường ủy ban xã, treo trang trọng phía góc phải của hội trường là tấm hình một cây chè “thủy tổ” với thân chè to bằng hai vòng tay ôm. Và hai người ôm cây chè trong tấm hình lịch sử này là phó thủ tướng Phạm Hùng và Bộ trưởng Bộ nội thương Nguyễn Thanh Bình chụp vào ngày 9-9-1962.
Trong tấm hình đen trắng được chụp từ gần nửa thế kỷ trước là hình ảnh một “lão trà” đại cổ thụ cao hơn 10 mét và tầm phủ tán rộng hàng chục mét vuông. Tiếc thay, khi chúng tôi đề nghị được đến thăm cây chè trong ảnh, anh Sổng A Nủ nói rằng cây chè đó đã bị chết vì mối đục thân từ mấy năm trước, và thay vì có giữ nó lại như một di tích thì chủ nhân cây chè đã bổ nó ra làm củi (!). Cây chè trong tấm hình đã bị đốn thì giờ đây người Suối Giàng vẫn có một cây chè khác để tôn làm cây chè tổ, hàng năm có lễ cúng nghiêm cẩn với thần chè, như người miền xuôi cúng “thần lúa”.
Từ cây chè tổ đến … thủy tổ cây chè
Dẫn đường cho chúng tôi vào thăm cây chè tổ của Suối Giàng là anh Giàng A Tủa, Bí thư xã Đoàn xã Suối Giàng. Phăm phăm len lỏi qua những thân chè phủ đầy địa y rêu mốc, chúng tôi dừng lại trước một cây chè với thân được hợp thành từ ba gốc, tán cây vươn dài ra hai phía, những cành chè mang dáng dấp của một bonsai khổng lồ, đẹp mê hoặc. Đây chưa phải là cây chè to nhất, bởi cây chè cổ to nhất, từng được Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm và chụp ảnh chung với cán bộ và nhân dân trong xã nằm ở bản Pang Cáng sau đó cũng bị chết vì bị mối đục (và cây chè tổ này cũng đang bị mối đục (!).
Chính rừng chè shan tuyết cổ thụ này đã mê hoặc một chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu chè của thế giới, Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ), ông M.K Djemukhatze từ những năm 60 của thế kỷ 20. Hình ảnh rừng chè cổ thụ mênh mông độc nhất vô nhị trên thế giới đã khiến ông dành nhiều tâm sức với cây chè Suối Giàng để cho ra đời một chuyên khảo công phu về chè Việt sau cả chục năm trời đi đi về với Suối Giàng. Trong sổ lưu niệm ở xã Suối Giàng còn ghi lại cảm tưởng của Djemukhatze về cây chè và vị chè kỳ diệu ở đây: “Tôi đã đi qua 120 nước có cây chè trên thế giới nhưng chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là nơi phát tích của cây chè? Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của chè thế giới”. Không dừng lại ở những cảm xúc nồng nhiệt ban đầu dành cho cây chè Suối Giàng, bằng những thực nghiệm khoa học, dựa trên “thuyết tiến hóa” của nhà bác học Darwin, Djemukhatze đã có các kết quả thực nghiệm về sự hình thành và tích lũy catechin trong cây chè hoang dã ở Suối Giàng đối chiếu với các vùng chè khác trên thế giới để cho ra một kết quả bất ngờ và đầy thuyết phục. Sơ đồ tiến hóa hóa sinh của cây chè thế giới được M.K Djemukhatze đưa ra là: Camelia > Thea wetnamica (chè Việt Nam)-> Thea fuinamica (chè Vân Nam lá to)-> The sinensis (chè Trung Quốc lá nhỏ)-> Thea assamica (chè Assam Ấn Độ). Với chiết xuất catechin từ các mẫu chè cổ của Việt Nam (mà cụ thể là ở Suối Giàng) Viện sĩ Djemukhatze đã đề xuất tên khoa học mới cho cây chè là Thea wetnamica (chè gốc Việt Nam) thay cho tên khoa học Thea sinensis (chè gốc Trung Hoa),,,
28/01/2025 lúc 23:02
T
ôi nghĩ rằng bất cứ một người Việt Nam nào cũng có ước mơ và niềm vui sướng được một lần hoặc nhiều lần lên du thuyền ngắm cảnh vịnh Hạ Long. Ngày nay du khách nhiều nước trên thế giới đã vượt biển trời xa hàng vạn dặm tìm về đây chỉ một mục đích: Ngắm cảnh vịnh Hạ Long.
Sáng nay sau ba giờ đường bộ bằng ô tô chúng tôi đến đảo Tuần Châu, bắt đầu một tua du lịch ngắn ngày, thực hiện ước mơ bấy lâu ấp ủ: Đón chúng tôi là con tàu hơi nước kiểu Pháp đầu thế kỷ 20 có tên là Emeraude (Ngọc lục bảo). Xin nói ngay với bạn đọc là: Để bảo vệ môi trường, tránh những tiếng ồn không cần thiết, những con tàu du lịch ở đây ưu tiên chạy bằng hơi nước, chạy bằng buồm hoặc chèo tay. Tàu Emeraude chỉ dài 55m rộng 7m, 3 tầng với 38 ca bin, 2 quầy ba - vậy mà tập hợp đủ mặt du khách ba miền Trung Nam Bắc. Tôi-người Quảng Trị, bạn đồng hành cùng tôi có người ở đồng bằng sông Cửu Long, có người ở Hà Nội, Hải Phòng, có người ở Lai Châu, Sơn La. ..
28/01/2025 lúc 23:02
K
hi còn cách Savanakhet đến một trăm cây số, tôi đã để ý thấy ông tài xế lái chuyến xe "liên vận" khởi hành từ Đông Hà, chất ngất hàng hóa và người, một tay cầm vô lăng, tay kia áp điện thoại vào tai, trò chuyện với ai đó rất sôi nổi. Đoạn, ông quay lại, nói với ra phía sau:
-Ai từ báo Quảng Trị sang, yên tâm, có người đón ngay tại bến xe nhé!
Đường Lào hun hút. Hai bên, rừng già tràn cả ra phần bê tông nhựa phẳng lỳ. Thi thoảng mới gặp một bản làng nhỏ bé và yên hòa. Lâu lắm mới thấy một chiếc xe ô tô bán tải chạy ngược chiều, phía sau thùng xe là những mẹ, những em đầu trần chang chang, ngồi nhấp nhổm giữa rau quả, cá mú, thịt thà và những tà khăn rằn phất phơ, nụ cười lấp lóa trong nắng.
Còn khoảng ba mươi, hai mươi cây số nữa, lại có cuộc điện thoại, lại chuyện trò rất thân tình, với ra phía sau, ông tài xế lặp lại câu nói liên quan đến tôi:
-Yên tâm, có người đón ngay tại bến xe nhé!
Xe dừng, một thanh niên có khuôn mặt nhẹ nhõm, nói tiếng Việt bằng chất giọng con trai vùng Bắc bộ ấm áp, bước ngay tới cửa. Anh cầm lấy tay tôi như đã gặp từ lâu lắm rồi, vỗ vỗ vào lưng tôi, anh bảo:
-Đi đường có mệt không? Về nhà thôi.
Đó là anh Khun My, được báo Savanphatthana nhờ phiên dịch tiếng Việt những ngày tôi lưu lại ở đây. Đi bên cạnh là anh Si lăm phăn, Trưởng ban Biên tập của báo, người thấp đậm, luôn nở nụ cười nhân hậu.
Tôi đến báo Savanphatthana như về với nhà mình.
Buổi sáng đầu tiên, đến cơ quan để chào mọi người, tôi đã thấy có dòng chữ Lào viết trên tấm bảng treo trước phòng máy vi tính, chữ viết rất mới, dường như thông báo sự có mặt của tôi và anh họa sĩ từ báo Quảng Trị sang. Tôi đoán vậy vì thấy "báo Quảng Trị" được viết bằng chữ Việt in hoa rất trang trọng.
Chúng tôi đã có cuộc giao ban ngắn với ban biên tập và phóng viên của báo trước khi làm việc với lãnh đạo Sở Thông tin- Văn hóa Savanakhet về những công việc cụ thể mà chúng tôi sẽ làm với bạn trong những ngày sắp tới.
Sau những buổi xã giao ban đầu, chúng tôi cùng các bạn ở báo Savanphatthana bắt tay vào những công việc chuyên môn như xử lý ảnh của phóng viên chụp về, lên trang, trình bày báo, chỉnh sửa lại măng sét...Việc đang ngon trớn, tự dưng có một nhà báo nữ, người dong dỏng, khuôn mặt rám nắng và duyên dáng, tóc búi cao, một tay kéo tôi ra phía cửa, một tay kéo anh Khun My, nhờ anh Khun My hỏi tôi rằng, đi ra phố chơi một chút có được không?
Tôi gật đầu.
Khun My giới thiệu với tôi, đây là Khamkham Chatthavong, cử nhân tiếng Anh, phóng viên trẻ của báo. Khamkham viết báo rất giỏi và từng phiên dịch tiếng Anh khi có khách nước ngoài đến làm việc.
Khamkham thấy tôi đồng ý thì vui lắm, khuôn mặt rạng rỡ, cử chỉ cũng trở nên lúng túng, khác với sự năng động của ngày thường, đi đi, đến đến, nhanh nhẹn, tháo vát. Em dắt chiếc xe máy dáng thể thao, xoay trở mãi mới ra được khuôn cửa rộng, khác với lúc đến, xe phanh kít, len lỏi điệu nghệ giữa hàng hàng xe máy san sát.
Khamkham chụp lên đầu tôi chiếc mũ bảo hiểm, giao chìa khóa xe, rồi từ tốn ngồi lên yên sau, giọng nói nhẹ như gió thoảng: Cà phê!
Tôi đã có một buổi sáng thong dong khắp phố phường, nơi được mệnh danh là "Thành phố Hồ Chí Minh "của bạn. Những dãy phố cổ trầm mặc rêu phong, có cảm giác như thời gian đang ngưng lại bên ô cửa màu gỗ mun ánh lên trong buổi ban mai yên ả. Qua những chùa chiền thấm đẫm mùi trầm và hương thơm từ loài hoa đại cánh trắng nhị vàng. Qua những dãy phố sang trọng, hàng hóa bề bộn nhưng lòng người thuần hậu.
Ngoài kia, sông Mê Công đang mùa nước cường, cuồn cuộn phù sa, ầm ào, sôi sục. Con đường bên sông, cuộc sống lại an nhiên, "cây và đá sạch như vô nhiễm" như trong một câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường....
28/01/2025 lúc 23:02
M
ỗi lần được dịp vào Thành Cổ Quảng Trị, trước đài tưởng niệm, đứng trang nghiêm cúi đầu dành những phút mặc niệm tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã không tiếc máu xương hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Việc nữa, chúng tôi thắp những nén hương để cầu nguyện cho linh hồn các anh hùng liệt sĩ và không quên vào nhà bảo tàng để ngắm nhì những hình ảnh, vật dụng, của những chiến sĩ cách mạng làm nên bao chiến công oanh liệt trong lịch sử chiến tranh Vệ quốc. Trong đó có một bức ảnh do nhà báo Công Tính chụp một ông già cầm chắc mái chèo và cô gái cầm chắc tay súng đưa bộ đội qua sông trong mùa hè đỏ lửa trên sông Thạch Hãn năm 1972. Chúng tôi thường đứng tần ngần rất lâu trước tấm hình và tự hỏi, họ còn sống hay đã hy sinh trong tám mươi mốt ngày đêm ác liệt ấy. Và câu hỏi ấy cứ theo tôi mãi cho đến một ngày mà tôi không tin vào mắt mình. ........
28/01/2025 lúc 23:02
M
ột câu chuyện diễn ra cách đây hơn một phần tư thế kỷ ở cầu Hiền Lương, cây cầu bắc ngang qua sống Bến Hải đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Ngày 30 - 5 - 1975, sau giải phóng miền Nam tròn một tháng, mười anh em cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 3 Sao Vàng chúng tôi được cử ra biên giới phía Bắc công tác. Đoàn chúng tôi đi trên chiếc xe GMC, chiến lợi phẩm của địch. Xe khởi hành từ Nha Trang, qua một ngày vượt hơn chục ngọn đèo với gần sáu trăm cây số, đường dài gian nan vất vả ai cũng thấm mệt. Trưởng đoàn cho chúng tôi nghỉ chân ở Huế, ăn tối và ngủ một giấc trên bờ sông Hương để lấy lại sức. Bốn giờ sáng, cả thành phố Huế còn chìm trong giấc ngủ, trưởng đoàn đã đánh thức chúng tôi dậy lên xe đi tiếp. Xe vừa ra khỏi thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị chừng non một cây số, dưới anh trăng vàng nhạt, chúng tôi thấy một người đàn ông hớt hải chạy đuổi theo xe chúng tôi. Vừa chạy ông vừa la lớn, la khản cả giọng: “Các… chú… giải phóng ơi, cho tui đi nhờ về bên bờ Bắc với!”. ...........
28/01/2025 lúc 23:02
T
ôi đã rất khấp khởi chuẩn bị cho một chuyến lên Tây Bắc. Cái lý do để đi là tham gia Trại viết của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, thời gian kéo dài 15 ngày. Thật không có cái kênh nào hợp lý bằng cái kênh đi trại viết để khám phá, thâm nhập thực tế. Chuẩn bị sẵn cho kế hoạch này, tôi đã chuẩn bị gần mấy trăm trang bản thảo theo đề cương đăng ký, đến nơi chỉ nộp “quyển” đúng theo yêu cầu là thong dong đi và viết về Tây Bắc...
Còn nhớ cái hôm kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam ở Nhà hát lớn Hà Nội, GS. Tô Ngọc Thanh bảo cái công trình tôi đăng ký năm nay hấp dẫn, hi vọng sẽ có thêm một đầu sách hay in trong năm tới. Thế mà trước lúc trại khai mạc mấy ngày, ThS. Cao Thị Hải điện vào báo tôi hoãn chuyến đi, cơ quan chủ quản của anh báo ra là không thể đi dài ngày như thế được, vì ở nhà không ai duyệt bài, tổ chức bài vở ra báo. Chao ôi là lý do lý trấu! Cái thời nào rồi mà làm báo phải ngồi trực ở cơ quan? Không để lỗi hẹn, tôi đảo quy trình điền dã bằng cách nối mạng với nhà báo, nhà văn Đặng Bá Tiến đang dẫn một đoàn VNS lên Tây bắc. Nó đang săn ảnh ở Sơn La, Điện Biên ...
28/01/2025 lúc 23:02
L
âu nay vẫn cứ nghe nói “Xuân về thay áo mới”, ý là nói cái thay đổi về cảnh sắc thiên nhiên, là nói về cái sự rạo rực, phấn chấn của lòng người trước sự thay đổi mang tính chu kỳ của trời đất, cỏ cây dưới tác động của khí hậu dịch chuyển theo chu trình: Tàn lụi - Hồi sinh. Đông qua - Xuân tới. “Xuân về thay áo mới” còn được hiểu và “vận” vào tâm thế, hoàn cảnh của con người theo cái mạch: Bĩ cực - Thái lai...
Thế mà ngày trước, nhất là ở cái tuổi hoa niên (cách nói hoa mỹ), chứ cái tuổi hoa niên của tôi (và cũng chẳng riêng tôi) ở cái thời tem phiếu thì phải gọi nó đúng tên là tuổi thơ bùn đất, tuổi thơ nghèo đói. Câu “Xuân về thay áo mới” không phải là cố ý nói chệch đi mà chính là sự háo hức “Xuân về được may áo mới”. Làm sao lại không háo hức khi quanh năm ngày tháng, năm này sang năm khác toàn mặc lại quần áo của anh. Vải chúc bâu, xanh chéo... vẫn còn soàn soạt thế, nhưng khốn nỗi những bộ “hoàng bào” ấy khi khoác lên mình những bậc đế vương, khi khoác lên mình những thằng quỷ sứ chúng tôi thì đít quần, gối chân, gối tay chẳng mấy mà đã tớp tua. Bà nội tôi ngồi vá quần, vá áo cho hai thằng cháu nội, mỗi lần xâu chỉ vào trôn kim qua đôi mắt kèm nhèm lại làu bàu:...
28/01/2025 lúc 23:02
C
ửa Tùng tháng bảy đang là mùa nắng. Dọc bãi tắm lác đác khách du lịch với nhiều biển số xe các tỉnh khác nhau nhưng chủ yếu là của các tỉnh phía Bắc, họ đi viếng nghĩa trang liệt sĩ và không quên ghé biển Cửa Tùng (huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị), nơi được mệnh danh “Nữ hoàng của các bãi tắm”. Tôi cùng doanh nhân Hồ Thanh Ngọc, giám đốc doanh nghiệp tư nhân Ngọc Tuấn ngồi trong quán cà phê Lộng Gió cùng hướng ra biển, nơi có gió sặc vị mặn của biển thổi vào. Trước mặt là thảm nước xanh phơi mình dưới ánh mặt trời, nhấp nhánh sóng.
Cửa Tùng không giống bất kỳ cửa biển nào mà tôi đã biết. Phía Bắc là các bãi đá do tạo hóa hình thành nên những eo vịnh bám sát vào triền đồi đất đỏ ba zan từ cửa biển lên Bến đò A và kéo dài thêm trên chục cây số nữa qua Vĩnh Thạch lên Vĩnh Kim tạo thành những vịnh nhỏ, kín đáo không có dòng hải lưu cuốn xoáy, quanh năm sóng gió hiền hòa. Phía trên bãi tắm Cửa Tùng là một vùng đất đỏ ba zan xóm làng cây cối xanh tươi trù mật với rất nhiều đặc sản đậm chất Quảng Trị. Đối diện Cửa Tùng, phía Nam là một bãi ngang cát trắng tinh chạy dài tít tắp. Nước biển ở đây màu xanh cũng lạ, nhiều người nói nó đổi màu theo giờ…
28/01/2025 lúc 23:02
C
ả một vùng đất chết với cơ man là hố bom, xác pháo, dây thép gai đã thay da đổi thịt và “dính người” một cách lạ lùng. Cũng không khó hiểu khi họ - những con người của đất thép Vĩnh Linh anh hùng đi qua chiến tranh với bao nhiêu mất mát, bao nhiêu máu xương đã đổ - nên những gian khó trong thời bình dường như “chẳng thấm”. Vì thế, khi tiếng súng trên quê hương vừa dứt, công cuộc xây dựng cuộc sống mới lại thôi thúc họ “gánh” tên làng, tên xã đi kinh tế mới lên những vùng cao. Vùng miền núi huyện Hướng Hóa sau những năm chiến tranh là một bức tranh ngổn ngang với nhiều tâm sự. Nhưng giờ đây, sắc màu của sự hồi sinh, của cuộc sống mới đã tràn trề ở phố núi này. Câu chuyện “cổ tích” ấy bắt đầu từ những… đôi đòn gánh.
Dấu vết của nghèo đói
Ông Hồ Pả Nay - người đồng bào Vân Kiều ở thôn Ruộng, xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa năm nay gần 70 tuổi. Đã hơn quá nửa cuộc đời gắn bó với mảnh đất này nên dù tuổi đã cao nhưng trông ông vẫn còn khỏe mạnh và rắn rỏi. Cái tẩu hút thuốc đen bóng vắt vẻo trên môi, trong ánh sáng mờ nhạt của bếp lửa ngay giữa gian nhà bếp, ông nhả một hơi thuốc dài rồi kể lại câu chuyện của mấy mươi năm về trước - khi vùng miền núi này còn hoang sơ và nghèo đói… Sau năm 1975, dân cư thổ địa ở đây là người đồng bào Vân Kiều, Pa Cô sống rải rác thành từng bản. Đất đai nương rẫy thì nhiều, nhưng không có sức làm bởi trình độ canh tác lạc hậu, phụ thuộc lớn vào thiên nhiên. Bom mìn còn sót lại sau chiến tranh nhan nhản, rất nhiều người chết, bị thương tật do vướng phải khi làm nương rẫy...
28/01/2025 lúc 23:02
D
ừng chân ở Cửa Tùng, cô bạn gái T. L chỉ đường cho tôi một cách cặn kẽ, rằng anh cứ đi ngược lên chừng hai cây số gặp sông là đến địa phận xã Vĩnh Giang, hỏi làng Tùng Luật là người ta sẽ chỉ đường cho. Tôi cười thầm bởi cô bạn cứ nghĩ rằng tôi ngồi bàn giấy lâu rồi, đã mất cảm giác đi thực tế. Hôm ấy là buổi sáng mùa hè nhưng ảnh hưởng áp thấp ngoài biển Đông, trời mưa giăng giăng khắp nẻo. Cố tình chạy xe chầm chậm dọc theo công viên gần một cây số bên sông, tôi muốn có phút giây thư thái để cảm nhận vẻ đẹp thanh bình của một làng quê nằm gần cuối dòng Bến Hải, nơi sinh ra những nghệ sĩ tài danh. Từ đây ra cửa biển chỉ còn không mấy nhịp chèo. Người mà tôi muốn gặp trong chuyến đi này là Nghệ sĩ Ái Chủng. Đã đôi lần gặp ông, khi thì ở các liên hoan nghệ thuật, khi thì thấy ông lên nhận bằng khen về thành tích xuất sắc trong khôi phục chèo cạn Tùng Luật...nhưng hôm nay tôi về đây là để nghe chính ông cắt nghĩa vì sao người ta gọi làng Tùng Luật quê ông là làng nghệ sĩ?...
28/01/2025 lúc 23:02
Cởi chiếc áo cũ ra đi
Buồn vui bốn mùa phải đâu phút chốc
Kỳ cọ tâm hồn, ướp lá đường cong…
T
ắm Tết. Tắm chiều ba mươi. Tắm đêm trừ tịch. Tắm lá mùi miền Bắc. Tắm hương nhu miền Nam. Tẩy trần, tẩy bụi bặm trần ai, tẩy cả những phiền muộn lo âu đầy ngập bốn mùa qua.
Giọt giọt mặn đắng rơi xuống. Giọt giọt thơm nồng bốc lên. Ướp mới, ướp cho tươi sạch da người, tươi sạch tuổi thơ, tươi sạch ký ức, tươi sạch cả con người luốc lem, bầm dập, sân si, sau chuỗi ngày lao đi lao về như cánh chim, như vó câu, như làn gió mỏng, như thân tâm này, linh hồn này trót trao cho khổ ải, nhịn nhục, hy sinh.
Vậy đó! Chẳng biết từ lúc nào người Việt mình có thói quen tắm Tết. Tôi chập chững vào đời đã thấy má tôi tắm Tết. Má tôi sinh ra đã thấy ngoại tôi tắm Tết. Ngoại tôi bập bẹ nói cười đã thấy cố tôi tắm Tết. Cuộc tắm truyền đời. Cuộc tắm miên man để giữ cho phận sống dẫu mỏng manh cũng mong, cũng ước, cũng nguyện, cũng giữ cho muôn phần thanh sạch, thơm nguyên. “Đói cho sạch, rách cho thơm”, má tôi thường nhắc các con mình như thế. Lớn khôn tí chút tôi hiểu lời dạy của má không chỉ tắm thơm da thịt, cơ thể mà còn phải tắm táp, ướp giữ thơm tho từng ý nghĩ, từng việc làm, từng nhịp hít thở trong giây phút, trong đoạn quãng sống quý giá ở cõi đời này...
28/01/2025 lúc 23:02
T
rong kí ức mỗi chúng ta, nhất là với những ai từng sinh ra và lớn lên ở làng quê, mảnh vườn có ngôi nhà che chở đã trở nên một kỉ niệm vô cùng thiêng liêng, máu thịt. Hình ảnh mảnh vườn xưa luôn hiển thị trong ta với những đường nét, sắc màu, âm thanh và cả mùi vị thân quen khiến dù đi đâu, ở đâu, mảnh vườn vẫn níu kéo tâm hồn ta quay trở về trong những đêm thao thức, những lúc bỗng nghe buồn, là lúc ta rất cần một điểm tựa. Cái mảnh vườn ấy luôn có trong trái tim ta, và thật lạ, nếu nó vẫn xanh mướt lá cành nơi quê cũ, đã hẳn nó làm ta nhớ, nhưng một khi nó đã mất đi lại càng làm ta nôn nao nghĩ tới. Nó không còn là những gì đã và sẽ thay đổi theo tháng ngày, mà đã định vị như đóng dấu trong trí não với những khuôn hình cuối cùng ta chứng kiến. Những hình ảnh đó sống mãi, cứ sừng sững trong lòng ta, mọi thứ ngày càng trở nên thiêng liêng hơn, ám ảnh hơn lúc xưa ta còn có nó.
Tôi đã trải nghiệm nỗi lòng với mảnh vườn xưa như thế. Tôi từng có một mảnh vườn quê cũ nơi cha mẹ, anh em tôi sinh sống, nơi còn cất giấu núm rau của tôi ngày mẹ sinh mà giờ đây tôi vẫn hình dung ra, lần lượt từ ngõ vào sân cho đến bờ cây cuối cùng sau vườn…
Hiện tại
26°
Mưa
07/07
25° - 27°
Mưa
08/07
24° - 26°
Mưa
09/07
23° - 26°
Mưa